🦫 Rèn Kĩ Năng Viết Đoạn Văn Nghị Luận
Có thể bạn quan tâm: Sách Hướng Dẫn Thiết Kế Web Bằng WordPress, Chia Sẻ Ebook Tài Liệu WordPress Tiếng Việt Full. Vậy là đến đây bài viết về Soạn bài Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận - Ngắn gọn nhất đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo
Download miễn phí PHƯƠNG PHÁP RÈN HS KĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY. Tài liệu đại học Toggle navigation. Miễn phí (current) Danh mục Nếu nội dung nghị luận gồm nhiều luận điểm thì tách mỗi luận điểm thành một đoạn văn riêng. Cần rèn học sinh ý thức không đợc coi
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ. Thứ năm - 29/10/2020 10:00. I. Đặc điểm của văn miêu tả. - Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc hình dung ra được những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh làm cho những cái đó hiện
Chúng ta không thể có cách học nào tốt hơn là rèn luyện thật nhiều kĩ năng đọc hiểu văn bản, phải nắm vững và làm chủ được nhiều loại kiến thức, và phải biết phát huy tính chủ động trong suy nghĩ của mình. (Norman Kusin). Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600
2019. Chuyên đề về kĩ năng làm bài Đọc - hiểu và viết đoạn văn nghị luận xã. hội này cùng với những chuyên đề về Nghị luận văn học đã giúp học sinh lớp 12. của trường năm học 2018 - 2019 nâng cao được điểm số bài thi môn Ngữ văn.
Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 12 - 15 dòng) kể về những lời dạy bảo ân cần của người bà, trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận. Hãy gạch chân dưới những câu văn có yếu tố nghị luận. Gợi ý: 1. Hình thức: + Viết đoạn văn tự sự có độ dài khoảng 12-15 dòng.
Mô tả thực trạng kỹ năng viết chính tả của học sinh lớp 2B trường Tiểu học Trần Văn Ơn. Rút ra kết luận và một số phương pháp để nâng cao hiệu quả việc rèn luyện kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh Tiểu học. Chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh nghiệm trong việc rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 2. Download tài liệu
- Khi viết đoạn văn, bài văn nghị luận chứng minh, học sinh có thể trình bày luận điểm (ý kiến) trước, rồi nêu lí lẽ, dẫn chứng chứng minh sau, hay có thể nêu các dẫn chứng, lí lẽ rồi đưa ra luận điểm của mình. - Phải biết phân tích, khai thác dẫn chứng, lí lẽ, chứ không giản đơn là kể ra.
Ở cấp độ 1, kiến thức lí luận văn học sử dụng chủ yếu ở phần tổng kết để so sánh, đối chiếu, nâng cao vấn đề. Ví dụ: Khi phân tích nhân vật ông Hai (trong truyện ngắn Làng), ta có thể so sánh đối chiếu với hình tượng nhân vật người nông dân trước CMT8 để thấy sự kế thừa và phát triển của nhà văn Kim Lân trong truyền thống về đề tài người nông dân.
TnWe1. Ngày đăng 04/05/2015, 1459 LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN HƯỚNG DẪN CHUNG I. Thế nào là đoạn văn? Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu theo nhiều cách khác nhau - Cách hiểu thứ nhất đoạn ý Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội dung, phân đoạn ý của văn bản. Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn Đoạn mở đầu văn bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào là một nội dung, một ý hoàn chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một văn bản, tuỳ theo người đọc cảm nhận mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia có thể không thống nhất giữa những người đọc có người chia theo ý lớn, có người chia theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý nhỏ được khai triển từ ý lớn, bao gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn ngắn đó là một ý nhỏ, các đoạn này hợp ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được khai triển từ ý lớn, về mặt nội dung chỉ triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một đoạn. Cách hiểu này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này, diện mạo đoạn văn không được xác định đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu văn trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào,… cho nên việc xây dựng đoạn văn trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ xảo. - Cách hiểu thứ hai đoạn lời Đoạn văn được hiểu là sự phân chia văn bản thành những phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức một đoạn văn bao gồm những câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng. Cách hiểu này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với cách hiểu này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải đi đôi với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà nó bao chứa. - Cách hiểu thứ ba đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí về ý và về lời Đoạn văn vừa là kết quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa vừa là kết quả của sự phân đoạn về hình thức dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản. Về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một trật tự nhất định đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản các đoạn này triển khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó nội dung của đoạn tương đối hoàn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định. Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở những điểm sau mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng chữ khác trong đoạn. Đây là cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch. Ví dụ về đoạn văn “ Vì ông lão yêu làng tha thiết nên vô cùng căm uất khi nghe tin dân làng theo giặc1. Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ dội 2. Ông Hai dứt khoát lựa chọn theo cách của ông Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù 3. Đây là một nét mới trong tình cảm của người nông dân thời kì đánh Pháp4. Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với làng quê5. Dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình yêu đối với quê hương; vì thế mà ông xót xa cay đắng”6. Về nội dung - Chủ đề của đoạn văn trên là tâm trạng mâu thuẫn của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc. Chủ đề này tập trung khái quát ở câu1,2. - Đoạn văn trên có ba phần + Câu 1,2 là phần mở đoạn. Phần này chứa đựng ý khái quát của cả đoạn văn, gọi là câu chủ đề. Câu chủ đề có thể là một hoặc hai câu văn. + Câu 3,4,5 là phần thân đoạn. Phần này triển khai đoạn văn, mỗi câu văn đề cập tới một biểu hiện cụ thể của chủ đề, liên quan tới chủ đề của đoạn văn. + Câu 6 là phần kết đoạn. Phần này khắc sâu chủ đề của đoạn văn. - Đây là đoạn văn có kết cấu đầy đủ cả ba phần mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Khi viết đoạn văn, không phải bao giờ cũng nhất thiết có đủ ba phần như vậy. Ví dụ Đoạn quy nạp, câu mở đầu đoạn không chứa đựng ý khái quát mà là câu cuối cùng; đoạn diễn dịch, câu cuối cùng kết thúc đoạn không chưa đựng ý khái quát, chủ đề đã được nêu rõ ở câu mở đoạn. Về hình thức - Đoạn văn trên được tạo thành bằng 6 câu văn được liên kết với nhau bằng các phép liên kết hình thức phép thế, phép lặp. - Đoạn văn trên được viết giữa hai dấu chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn được viết lùi vào một chữ và viết hoa. II. Kết cấu đoạn văn. Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ biến quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh, nhân quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,… 1. Đoạn diễn dịch. Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết. Ví dụ Đoạn văn diễn dịch, nội dung nói về cá tính sáng tạo trong sáng tác thơ “ Sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình thành một cá tính sáng tạo1.Tuy vậy, theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không nên thổi phồng cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên một cách quá đáng2. Điêù ấy không hợp với thơ và không phải phẩm chất của người làm thơ chân chính3. Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa4 .Trong khi sáng tác nhà thơ không thể cứ chăm chăm mình phải ghi dấu ấn của mình vào trong bài thơ này, tập thơ nọ5. Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm toàn ý bằng sự xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách tự nhiên, nhà thơ sẽ biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm bút”6 Mô hình đoạn văn Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ đề. Bốn câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn giải thích có kết cấu diễn dịch. 2. Đoạn quy nạp. Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể nhằm hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung. Ví dụ Đoạn văn quy nạp, nội dung nói về đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. “ Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo1. Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng2. Bất chợt chiến sĩ ta có một phát hiện thú vị Đầu súng trăng treo3. Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa4. Trong sự tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi5. Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược6. Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui7. Khẩu súng và vầng trăng là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất và hào hoa muôn thuở8. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để đời9. Mô hình đoạn văn Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ đề, thể hiện ý chính của đoạn đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích có kết cấu quy nạp. 3. Đoạn tổng phân hợp. Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề. Ví dụ Đoạn văn tổng phân hợp, nội dung nói về đạo lí uống nước nhớ nguồn “ Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người1. Hiện nay trên khắp đất nước ta đang dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng, những gia đình có công với cách mạng2. Đảng và Nhà nước cùng toàn dân thực sự quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách3. Thương binh được học nghề, được trợ vốn làm ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng được tặng nhà tình nghĩa, được các cơ quan đoàn thể phụng dưỡng, săn sóc tận tình4. Rồi những cuộc hành quân về chiến trường xưa tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt sĩ đã hi sinh anh dũng vì độc lập, tự do… 5Không thể nào kể hết những biểu hiện sinh động, phong phú của đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta6. Đạo lí này là nền tảng vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp7. Mô hình đoạn văn Đoạn văn gốm bảy câu - Câu đầu tổng Nêu lên nhận định khái quát về đạo làm người, đó là lòng biết ơn. - Năm câu tiếp phân Phân tích để chứng minh biểu hiện của đạo lí uống nước nhớ nguồn. - Câu cuối hợp Khẳng định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối với việc xây dựng xã hội. Đây là đoạn văn chứng minh có kết cấu tổng phân hợp. 4. Đoạn so sánh So sánh tương đồng. Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn,… có nội dung tương tự nội dung đang nói đến. Ví dụ 1 Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về câu thơ kết trong bài “ Nghe tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh Ngày trước tổ tiên ta có câu “ Có công mài sắt có ngày nên kim”1. Cụ Nguyễn Bá Học , một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”2. Sau này, vào đầu những năm 40, giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đã đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “ Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu “ Gian nan rèn luyện mới thành công”3. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta4. Mô hình đoạn văn Câu nói của tổ tiên, câu nói của Nguyễn Bá Học câu 1,2 có nội dung tương đương với nội dung câu thơ của Hồ Chí Minh 4. Đây là đoạn văn mở bài của đề bài giải thích câu thơ trích trong bài “ Nghe tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh có kết cấu so sánh tương đồng. Ví dụ 2 Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về hình ảnh “vầng trăng” trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy “ Tuổi thơ Nguyễn Duy gắn bó với trăng và cả khi trở thành người lính thì trăng vẫn là người bạn tri kỉ“hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thảnh tri kỉ”.1 Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa, thuỷ chung của hai người bạn trăng và người lính, người lính và trăng2. Cuộc sống trong rừng thời chiến tranh biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người lính bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngại3. Trăng đến toả ánh sáng dịu mát cho giấc ngủ người chiến sĩ “ Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” Hồ Chí Minh 4. Trăng đến bên người chiến sĩ cùng chờ giặc tới trong những đên khuya sương muối “Đầu súng trăng treo” Chính Hữu5. Ánh trăng cùng với người lính qua biết bao năm tháng gian khổ của đất nước để vượt lên mọi sự tàn phá của quân thù “Và vầng trăng, vầng trăng đất nước Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”. Phạm Tiến Duật 6. Trăng với người lính trong thơ thật gần gũi và gắn bó 7. Đặc biệt, trong thơ Nguyễn Duy ánh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp “ vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” 9. Ví dụ 3 Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim Lân Trong con người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với lòng yêu nước. Tình yêu quê hương là cội nguồn của lòng yêu nước. Đúng như I – li – a Ê – ren – bua, một nhà văn Liên Xô cũ đã viết “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất…Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu Tổ quốc”. Với ông Hai, chân lí ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu con đường làng, yêu những mái nhà ngói,…tình cảm của ông Hai đã tiến dần lên lòng yêu nước mà lòng yêu nước sâu nặng thầm kín ấy lại bừng sáng rực rỡ, lung linh trong tâm hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên thành đỉnh cao của vẻ đẹp trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khắc hoạ, tô đậm rõ nét. Vì yêu nước nên ông Hai căm thù bọn người phản bội đất nước. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây ông đã rít lên “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”. Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén kìm hãm đã ghê gớm lắm rồi trong lòng ông. Lời nói ấy ẩn chứa biết bao nhiêu oán trách, khinh bỉ, khổ đau. Cũng vì yêu nước mà chiều nào ông cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin tức về cuộc kháng chiến. Ông hả lòng, hả dạ, sung sướng, tự hào trước những chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước. Điều đó thể hiện chân thực tấm lòng ông Hai dành cho đất nước. So sánh tương phản. Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,…tương phản nhau. Ví dụ 1 Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về việc học hành Trong cuộc sống, không thiếu những người cho rằng cần học tập để trở thành kẻ có tài, có tri thức giỏi hơn người trước mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa vốn là giá trị cao quý nhất trong các giá trị của con người 1. Những người ý luôn hợm mình, không chút khiêm tốn, đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội2. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân “ Tiên học lễ, hậu học văn” 3. Mô hình đoạn văn Ý tưởng của đoạn văn là nói về quan niệm của việc học học để làm người. Câu 1,2 nêu nội dung trái ngược với ý tưởng; câu 3 nêu ý tưởng. Nội dung tương phản với ý tưởng bao giờ cũng được đề cập trước, sau đó dẫn đến nội dung chính của ý tưởng. Đây là đoạn văn mở bài, giải thích câu nói của Khổng Tử “ Tiên học lễ, hậu học văn”. Ví dụ 2 Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về phẩm chất của con người mới trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long Thực lòng mà nói, giữa bao lo toan hối hả của cuộc sống thường ngày, có khi nào ta dành ra được những phút tĩnh lặng của cuộc đời, để lắng nghe nhịp đập bên trong thầm lặng của cuộc sống. Đọc “ Lặng lẽ Sa Pa”, ta giật mình bởi những điều Nguyễn Thành Long nói tới mà ta quen nghĩ, quen nhìn hời hợt, nông cạn theo một công thức đã có sẵn mà không chịu đi sâu tìm tòi, phát hiện bản chất bên trong của nó “ Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và suy nghĩ” hết mình cho đất nước, cho cuộc sống hôm nay. 5. Đoạn nhân quả. Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau. Đoạn văn có kết cấu hai phần, phần trước trình bày nguyên nhân, phần sau trình bày kết quả của sự việc, hiện tượng, vấn đề,… Ví dụ 1 Đoạn văn nhân quả, nội dung nói về chi tiết Vũ Nương sống lại dưới thuỷ cung trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ “ Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn ấy và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta1. Vì thế mới có đoạn hai, kể chuyện nàng Trương xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa2.” Ví dụ 2 Đoạn văn nhân quả, nội dung nói tới lời khuyên về lòng biết ơn của con cái với cha mẹ trong một bài ca dao Núi Thái Sơn là núi cao nhất, đồ sộ nhất, vững chãi nhất ở Trung Quốc, cũng như tình cha mạnh mẽ, vững chắc1. Chính người đã dạy dỗ hướng cho ta về lẽ phải và truyền thêm cho ta sức mạnh để bay vào cuộc sống2. Và thông qua hình tượng nước trong nguồn, dòng nước tinh khiết nhất, mát lành nhất, dạt dào mãi chẳng bao giờ cạn, ta cảm nhận ró được tình yêu của mẹ mới thật ngọt ngào, vô tận và trong lành biết bao nhiêu3. Từ những hình ảnh cụ thể ấy mà ta có thể thấy được ý nghĩa trừu tượng về công cha nghĩa mẹ4. Công ơn đó, ân nghĩa đó to lớn sâu nặng xiết bao; chính vì vậy mà chỉ có những hình tượng to lớn bất diệt của thiên nhiên kì vĩ mới sánh bằng5.Vì thế mà người xưa mới khuyên nhủ chúng ta phải làm tròn chữ hiếu, để bù đắp phần nào nỗi cực nhọc, cay đắng của cha mẹ đã phải trải qua vì ta”6. Mô hình đoạn văn Ý tưởng của đoạn văn là giải thích ý nghĩa câu ca dao. Sáu câu trên giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng của hình ảnh trong câu ca dao, nêu nguyên nhân. Câu 6 là kết luận về lời khuyên, nêu kết quả Chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau. Đoạn văn có kết cấu hai phần. Phần đầu nêu kết quả, phần sau nêu nguyên nhân. Ví dụ Đoạn văn nhân quả, nội dung nói về lòng hiếu nghĩa của Kiều trong lúc lưu lạc Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết được tấm lòng chí hiếu của người con gái ấy1. Nàng biết sẽ còn bao cơn “ cát dập sóng vùi” nhưng nàng vẫn chỉ lo canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “ sân hoè đôi chút thơ ngây”2. Bốn câu mà dùng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “ quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “ gốc tử3”. Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiều đậm phần trang trọng, thiết tha và có chiều sâu nhưng cũng không kém phần chân thực4. Mô hình đoạn văn Ý tưởng của đoạn bình về lòng hiếu của Kiều. Câu 1 nêu kết quả, ba câu còn lại nêu nguyên nhân 6. Đoạn vấn đáp. Đoạn văn vấn đáp là đoạn văn có kết cấu hai phần, phần đầu nêu câu hỏi, phần sau trả lời câu hỏi. Nội dung hỏi đáp chính là chủ đề của đoạn văn. Trong kiểu kết cấu này, phần sau có thể để người đọc tự trả lời. Ví dụ Đoạn văn vấn đáp, nội dung nói về cái hồn dân tộc trong bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên Cứ đọc kĩ mà xem, sẽ thấy cái xót xa thấm đậm quay cuồng trong câu hỏi cuối “ Những người muôn năm cũ”, những người ấy là những tâm hồn đẹp thanh cao bên câu đối đỏ của ông đồ, hay những ông đồ trên phố phường Hà Nội xưa1? Tôi nghĩ là cả hai2. Thắc mắc của tác giả rất có lí, và chính vì có lí nên nó thật tàn nhẫn và đau lòng3. Những cái đẹp cao quý sâu kín, cái đẹp của hồn người Hà Nội, cái đẹp của hồn Việt Nam cứ ngày càng mai một, càng bị cuộc sống với những quy tắc rất thực tế lấn át, chà đạp và xô đẩy sang lề đường để rồi biến mất như ông đồ già kia, và có lẽ sẽ mãi mãi không còn nếu như không có những Vũ Đình Liên đáng khâm phục4. “Hồn ở đâu bây giờ”5? Câu hỏi ấy là tiếng chuông cảnh tỉnh người đọc ở mọi thế hệ mọi thời đại, thức dậy những gì sâu xa đã bị lãng quên, chon vùi dưới cuộc sống ồn ào náo nhiệt6. Làm sao để tìm lại cái hồn thanh cao cho mỗi con người Việt Nam, để khôi phục lại cái hồn cho cả dân tộc, đó là điều nhà thơ Vũ Đình Liên muốn nhắn gửi chúng ta7. Mô hình đoạn văn Ý tưởng của đoạn văn là giải thích và bình về hai câu thơ. Phần nêu câu hỏi là câu 1, phần trả lời là câu 2,3,4. 7. Đoạn đòn bẩy. Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng chủ đề của đoạn tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra. Ví dụ Đoạn văn đòn bẩy, nội dung nói về hai câu thơ tả cảnh xuân trong “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du Trong “ Truyện Kiều” có hai câu thơ tả cảnh mùa xuân rất đẹp “ Cỏ non xanh rợn chân trời Cành lên trắng điểm một vài bong hoa”1. Thơ cổ Trung Hoa cũng có hai câu thơ tả cảnh đầy ấn tượng “ Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa2. …Tác giả Trung Quốc chỉ nói “ Lê chi sổ điểm hoa” trên cành lê có mấy bông hoa3. Số hoa lê ít ỏi như bị chìm đi trong sắc cỏ ngút ngàn4. những bông lê yếu ớt bên lề đường như không thể đối chọi với cả một không gian trời đất bao la rộng lớn5. Nhưng những bông hoa trong thơ Nguyễn Du là hoàn toàn khác “ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”6. Nếu như bức tranh xuân ấy lấy phông nền là màu xanh của của cỏ thì những bông hoa lê là một nét chấm phá vô cùng sinh động và tài tình7. Sắc trắng của bông hoa lê – cái sắc trắng chưa từng xuất hiện trong câu thơ cổ Trung Hoa- nổi bật trên nền xanh tạo ra thanh khiết trong sáng vô cùng8. Tuy chỉ là một vài chấm nhỏ trên bức tranh nhưng lại là điểm nhấn toả sáng và nổi bật trên bức tranh toàn cảnh9. Những bông hoa “trắng điểm” thể hiện sự tài tình gợi tả gợi cảm trong lời thơ10. Cành hoa lê như một cô thiếu nữ đang e ấp dịu dàng11. Câu thơ cũng thể hiện bản lĩnh hội hoạ của Nguyễn Du12. Hai sắc màu xanh và trắng hoà quyện với nhau trong bức tranh xuân vừa đẹp vừa dào dạt sức sống đầy xuân sắc, xuân hương và xuân tình13. Mô hình đoạn văn Ý tưởng của đoạn văn là bình giảng câu thơ với hình ảnh thơ đặc sắc. Câu 3,4,5 phân tích câu thơ cổ Trung Quốc làm điểm tựa để năm câu còn lại câu 6,7,8,9,10 làm rõ được chủ đề đoạn. 8. Nêu giả thiết. Đoạn văn nêu giả thiết là đoạn văn có kết cấu mở đoạn nêu giả thiết, để từ đó đề cập tới chủ đề đoạn. Ví dụ Đoạn văn nêu giả thiết, nội dung nói về chi tiết “ cái bóng” trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” Giáo sư Phan Trọng Luận không sai khi nói “ Cái bóng đã quyết định số phận con người”, đây phải chăng là nét vô lí, li kì vẫn có trong các truyện cổ tích truyền kì1? Không chỉ dừng lại ở đó, “ cái bóng còn là tượng trưng cho oan trái khổ đau, cho bất hạnh của biết bao người phụ nữ sống dưới xã hội đương thời2. Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là những cái bóng mờ ảo, không bao giờ được sáng tỏ3. Hủ tục phong kiến hay nói đúng hơn là cái xã hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn, bao nhân cách đẹp, đẩy họ đến đường cùng không lối thoát4. Để rồi chính những người phụ nữ ấy trở thành “ cái bóng” của chính mình , của gia đình, của xã hội5. Chi tiết “ cái bóng” được tác giả dùng để phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái nhưng cũng như bao nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống cho tiếng lòng của chính nhân vật được cất lên, được soi sáng bởi tâm hồn người đọc5. “ Cái bóng” được đề cao như một hình tượng đẹp của văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người6. Bạn đọc căm phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu thương đồng cảm với Vũ Nương bấy nhiêu7. “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt vời từ tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện lên một tầm cao mới chân thực hơn và yêu thương hơn8. Mô hình đoạn văn Đoạn văn có câu thứ nhất nêu giả thiết về chi tiết “cái bóng”. Các câu tiếp theo khẳnh định giá trị của chi tiết đó. 9. Đoạn móc xích. Đoạn văn có mô hình kết câu móc xích là đoạn văn mà ý các câu gối đầu lên nhau, đan xen nhau và được thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ ở câu trước trong câu sau. Ví dụ Đoạn văn móc xích, nội dung nói về vấn đề trồng cây xanh để bảo về môi trường sống Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây gây rừng. Trồng cây gây rừng thì phải coi trọng chăm sóc, bảo vệ để có nhiều cây xanh bóng mát. Nhiều cây xanh bóng mát thì cảnh quan thiên nhiên đẹp, đất nước có hoa thơm trái ngọt bốn mùa, có nhiều lâm thổ sản để xuất khẩu. Nước sẽ mạnh, dân sẽ giàu, môi trường sống được bảo vệ. Mô hình đoạn văn Các ý gối nhau để thể hiện chủ đề về môi trường sống. Các từ ngữ được lặp lại gỗ, trồng cây gây rừng, cây xanh bóng mát. LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN Phần I Luyện viết đoạn văn theo nội dung đọc - hiểu văn bản nghệ thuật. Để đọc hiểu một tác phẩm văn học, bạn đọc nói chung và bạn đọc trong nhà trường là học sinh nói riêng thường đọc hiểu theo một quy trình chung - Đọc và tìm hiểu chung về tác phẩm tìm hiểu về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, tóm tắt tác phẩm nếu là tác phẩm tự sự, tìm hiểu nhan đề tác phẩm…từ đó bước đầu xác định chủ đề của tác phẩm. - Đọc và tìm hiểu chi tiết đọc phân tích từng phần như phân tích đoạn văn, đoạn thơ, phân tích nhân vật, phân tích hình tượng, hình ảnh, chi tiết, hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ,…từ đó đọc ra tư tưởng, thái độ tình cảm của tác giả trước vấn đề xã hội, trước hiện thực cuộc sống được gửi gắm trong tác phẩm. Trên cơ sở kiến thức về đọc hiểu tác phẩm, để kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kĩ năng nói viết của bạn đọc học sinh về những kiến thức đọc hiểu cụ thể, cần có những bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn. Các loại đoạn văn cần luyện viết theo nội dung đọc - hiểu thường là 1. Đoạn văn giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. 2. Đoạn văn tóm tắt tác phẩm. 3. Đoạn văn giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. [...]...4 Đoạn văn phân tích một chi tiết quan trọng, từ ngữ đặc sắc của tác phẩm 5 Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật 6 Đoạn văn phân tích hiệu quả nghệ thật của biện pháp tu từ 7 Đoạn văn phân tích, cảm nhận về một đoạn văn, đoạn thơ Những bài tập luyện viết đoạn văn trong nhà trường thường có yêu cầu phối hợp giữa yêu cầu về nội dung, đề tài với yêu cầu về hình thức diễn đạt Ví dụ Viết một đoạn văn. .. kiểu câu Đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc, từ ngữ dùng chính xác, chân thực, có tính hình tượng - Luyện viết đoạn văn theo yêu cầu cụ thể viết đoạn văn có câu ghép và phương tiện liên kết; đoạn văn có câu hỏi tu từ, đoạn văn kết bằng câu cảm thán,… Để viết đoạn văn giới thiệu hoàn cảnh ra đời cầu tác phẩm theo yêu cầu cụ thể như có sử dụng câu ghép, một hoặc hai phương tiện liên kết, người viết trước... vị trí kiểu câu đó trong đoạn văn cần viết; hoặc phép liên kết cần viết trong đoạn văn đó Với bài tập trên, kết thúc đoạn là câu cảm thán câu cuối đoạn nhận xét và thể hiện thái độ tình cảm của người viết theo hướng ngợi ca tinh thần trách nhiệm, nhận thức hoặc suy nghĩ của nhân vật anh thanh niên - Người viết dùng phương tiện ngôn ngữ lời văn của mình để viết đoạn văn Khi viết cần chú ý diễn đạt... Nguyễn Thành Long; yêu cầu về hình thức là viết đoạn văn theo mô hình diễn dịch, kết thúc đoạn là một câu cảm than Người viết lập ý cho đoạn văn và định hình vị trí các câu trong đoạn ,phương tiện liên kết đoạn; đặc biệt là các yêu cầu cụ thể về viết câu câu cảm thán, câu hỏi tu từ, câu ghép,… trong đoạn + Tìm ý cho đoạn văn Với bài tập trên đây là đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật, đặc điểm nổi... dụng ý là như thế đó! Câu kết thúc đoạn văn là câu cảm thán - Ví dụ 2- Bài tập Viết một đoạn văn ngắn giải thích nhan đề của truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long trong đó có sử dụng một câu hỏi tu từ kết thúc đoạn - Đoạn văn minh hoạ “ Chúng ta đều biết nhan đề tác phẩm thường thể hiện đề tài, nội dung hoặc tư tưởng chủ đề của tác phẩm; với nhan đề “ Lặng lẽ Sa Pa”, truyện ngắn... quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu bằng đoạn văn diễn dịch, trong đó có câu hỏi tu từ - Tóm tắt ngắn gọn không quá nửa trang giấy thi tác phẩm “ Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê bằng đoạn văn tổng phân hợp, có sử dụng phép nối 3 Đoạn văn giải thích về ý nghĩa nhan đề tác phẩm Hướng dẫn viết đoạn Nhan đề của tác phẩm thường được tác giả đặt bằng một từ, một cụm từ Nhan đề tác phẩm thường... kết thúc đoạn văn là câu hỏi tu từ Luyện tập - Viết đoạn văn khoảng 5 câu theo cách tổng phân hợp, có sử dụng câu ghép, thể hiện sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Đồng chí” của Chính Hữu - Viết đoạn văn khoảng 5 câu theo cách tổng phân hợp, có sử dụng câu mở rộng thành phần, thể hiện sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Bếp lửa” của Bằng Việt - Viết đoạn văn khoảng... nghĩa nhan đề tác phẩm “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm - Viết đoạn văn khoảng 5 câu theo cách quy nạp, cs sử dụng câu hỏi tu từ, thể hiện sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy - Viết đoạn văn khoảng 5 câu theo cách tổng phân hợp thể hiện sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Sang thu” của Hữu Thỉnh - Viết đoạn văn ... người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” - Viết một đoạn văn, có sử dụng câu mở rộng phành phần, phân tích hình ảnh đám mây trong hai câu thơ sau “ Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” “ Sang thu” - Hữu Thỉnh 5 Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật Hướng dẫn viết đoạn văn Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật là đoạn văn độc lập Ở đó có thể phân tích một đặc điểm nào đó của nhân... Dữ - Viết một đoạn văn có sử dụng phép nối, phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim Lân - Viết một đoạn văn có sử dụng phép thế, phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “ Lặnh lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long - Viết một đoạn văn quy nạp có sử dụng than từ, phân tích tình yêu ba mãnh liệt của bé Thu trong truyện “ Chiếc lựơc ngà” của Nguyễn Quang Sáng - Viết một đoạn văn theo - Xem thêm -Xem thêm Chuyên đề Rèn kĩ năng viết đoạn văn,
Tài liệu "Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9" có mã là 233252, file định dạng doc, có 24 trang, dung lượng file 304 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Luận văn đồ án > Sư phạm. Tài liệu thuộc loại BạcNội dung Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 24 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9Trên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Rèn luyện kĩ năng, hoặc là Rèn luyện kĩ năng tìm được nội dung có tiêu đề chính xác nhất bạn có thể sử dụng Rèn luyện kĩ năng viết bài, hoặc là Rèn luyện kĩ năng viết bài nhiên nếu bạn gõ đầy đủ tiêu đề tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 thì sẽ cho kết quả chính xác nhất nhưng sẽ không ra được nhiều tài liệu gợi có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Ren luyen ki nang, Ren luyen ki nang viet, Ren luyen ki nang viet bai, Ren luyen ki nang viet bai nghi, đều cho ra kết quả chính xác. năng tác phẩm tác văn cho Rèn luyện kĩ sinh cho học nghị Rèn luyện kĩ năng viết lớp văn học phẩm Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị học Rèn luyện Rèn 9 kĩ năng bài luyện Rèn luyện kĩ năng viết viết bài kĩ Rèn luyện Rèn luyện kĩ năng viết bài sinh lớp luận nghị luận học Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9" Tài liệu vừa xem Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị Rèn luyện kĩ Rèn luyện kĩ năng Rèn luyện kĩ năng viết Rèn luyện kĩ năng viết bài Rèn luyện
QUẢNG CÁO Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm Rèn kĩ năng làm văn nghị luận lớp 11 Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư [email protected] Tổng hợp các đề cương đại học hiện có của Đại Học Hàng Hải Đề Cương VIMARU Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ Sau “mục lục” và “bản xem trước” Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức Đề cương liên quanRèn luyện kĩ năng về cách làm bài văn nghị luận Văn học lớp 9 có hiệu quả Tải ngay đề cương bản PDF tại đây Rèn kĩ năng làm văn nghị luận lớp 11 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Theo thống kê kết quả kiểm tra, thi những năm gần đây bài kiểm tra môn Ngữ Văn đạt điểm cao rất ít, phần lớn dưới điểm trung bình, thậm chí điểm 0 cũng có. Trong đó nhiều bài làm của học sinh khiến người chấm chưa hài lòng vì những sai sót quá cơ bản như sai chính tả, sai kiến thức, lỗi diễn đạt, suy diễn theo cảm tính, viết mà không hiểu những gì mình đã viết,… Đặc biệt khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh hiện nay rất yếu, nhiều em tỏ ra rất lúng túng, thậm chí chưa xác định được một hệ thống luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và xác đáng. Có một điều khá phổ biến của học sinh THPT hiện nay là khi làm văn xong không thể tự mình rút kinh nghiệm, tự mình đánh giá xem bài làm có chỗ nào được, chỗ nào chưa được. Và có nhiều học sinh chưa nắm vững được quy trình làm một bài văn, chưa làm chủ được các thao tác lập luận, các công việc cần thiết của tiến trình xây dựng một văn bản, học sinh thường chỉ lo khâu bước vào bài và cảm thấy khó khăn ở bước nhập đề. Cứ nghĩ nhập đề xong thế là viết được bài. Ở đây, tôi không bàn đến cảm hứng sáng tạo mà chỉ nói đến ý thức trong đầu óc của người cầm bút về ý đồ thông báo, về nội dung thông báo, về cách thức thông báo, về cách dùng từ, diễn đạt. Chỗ yếu cơ bản này của học sinh phản ánh tình trạng mù mờ về lí thuyết mà giáo viên THPT chúng ta lâu nay thường mắc phải. Đa số học sinh THPT làm văn theo cảm tính, học sinh chưa có thói quen suy nghĩ về đề, về yêu cầu của đề, về cách tìm ý, sắp xếp các ý, về kết cấu văn bản sắp hình thành. Hiện tượng học sinh lạc đề, xa đề, viết lan man, kết cấu lộn xộn, trùng lặp, đứt mạch, mất cân đối, hoặc bài văn kết cấu không đầy đủ, không biết triển khai luận điểm ở từng phần hay không biết khai thác tư liệu,… Đó là những thiếu sót phổ biến trong kĩ năng làm văn nghị luận của học sinh hiện nay. Có nhiều cách lí giải hiện tượng này, nhưng có một nguyên nhân chính, đó là sự non kém về ý thức làm văn của học sinh hay nói đúng hơn là sự non kém về văn hóa làm văn. Hơn nữa, đối tượng mà tôi nghiên cứu trong chuyên đề này là học sinh lớp 11, cụ thể là học sinh lớp 11A4, 11A5, 11A6 của trường THCS và THPT Bàu Hàm – một ngôi trường vùng sâu vùng xa, mà phần lớn học sinh là người dân tộc, lực học rất yếu, đặc biệt là rất yếu khi làm văn. Điều đó đã phản ánh một thực tế hiệu quả học và làm văn ngày càng sa sút và đang ở mức báo động đòi hỏi cần phải đưa ra những giải pháp thích hợp để đổi mới quy trình dạy và học môn Ngữ Văn hiện nay, đặc biệt phân môn làm văn, trong đó có bài văn nghị luận. Với suy nghĩ trên, tôi xin giới thiệu cùng các thầy cô giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 11 chuyên đề Rèn kĩ năng làm văn nghị luận lớp 11. Mong rằng chuyên đề này sẽ góp một phần nhỏ vào quy trình đổi mới phương pháp dạy và học môn Ngữ Văn ở các trường trung học phổ thông vùng sâu, vùng xa trên địa bàn huyện Trảng Bom và các trường trung học phổ thông hiện nay. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Xuất phát từ phương châm “Học đi đôi với hành, lí luận phải gắn liền với thực tiễn”, do đó ngoài việc cung cấp kiến thức mới, giáo viên cần hướng dẫn học sinh áp dụng các kiến thức đã học vào làm văn ở các kiểu bài, các dạng đề có liên quan đến những kiến thức đã học, nhằm nâng cao kiến thức cũng như khả năng vận dụng các kiến thức vào thực tế cuộc sống. Có như vậy học sinh mới phát huy tư duy một cách toàn diện và sâu sắc nhất. Trong thực tế giảng dạy nếu giáo viên chỉ cung cấp kiến thức mới mà không có các bài làm văn liên quan đến những kiến thức đã học thì học sinh chỉ thu nhận một cách thụ động. Vì vậy, qua các bài làm văn học sinh sẽ đánh giá kết quả học tập của mình cũng như giáo viên dựa vào kết quả đó để thay đổi phương pháp giảng dạy phù hợp. Trong quá trình giảng dạy, hướng dẫn, giáo viên không chỉ là người dạy, cung cấp kiến thức mà là người hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức; còn học sinh thì không thụ động lĩnh hội kiến thức được đơn giản hóa. Bởi trên thực tế, vì sự thụ động của học sinh, có những giáo viên viết thay học sinh phần mở bài, thân bài hay kết bài mà học sinh gọi đó là văn mẫu, mà học sinh phải tự mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên và năng động của tư duy tìm tòi, phát hiện, tiếp nhận, giải mã, rồi biết vận dụng những kiến thức vào làm văn. Vì vậy, giáo viên phải linh hoạt trong từng dạng bài làm văn nhằm đạt được kết quả cao nhất. Quá trình làm văn là một quá trình chuyển hóa kiến thức đã học thành một sản phẩm kiến thức mới của chủ thể sáng tạo, của từng cá nhân học sinh. Chính vì vậy có thể khái quát rằng Làm văn là quá trình sáng tạo của cá nhân học sinh, là một cơ hội để học sinh bộc lộ được rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết về nhiều mặt cùng những phẩm chất và năng lực của học sinh, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, năng lực hoạt động ngôn ngữ. Hơn nữa, văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy logíc, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống. Và xuất phát từ thực tế, trong năm năm giảng dạy tại trường THCS và THPT Bàu Hàm, tôi cũng thẳng thắn đưa ra những thuận lợi và khó khăn khiến tôi trăn trở, quyết tâm thực hiện chuyên đề này Trước hết, về bản thân giáo viên được đào tạo đúng chuyên môn, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để phù hợp với xu thế đổi mới hiện nay và tình hình học tập của học sinh trường THCS và THPT Bàu Hàm. Còn học sinh luôn chuẩn bị tâm thế tiếp thu bài. Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ cho việc giảng dạy môn Ngữ Văn. Tài liệu tham khảo trong thư viện của nhà trường cũng khá nhiều, giúp ích cho công tác giảng dạy và nghiên cứu, tham khảo cho cả thầy và trò. Bên cạnh đó phải kể đến những khó khăn như Về đối tượng học sinh của trường THCS và THPT Bàu Hàm – đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa, người dân tộc nhiều chủ yếu là người Hoa lực học rất yếu, đặc biệt yếu môn Văn, trong đó có phân môn làm văn. Hơn thế học sinh hiện nay có xu thế xem nhẹ môn Văn dẫn đến chất lượng học tập rất thấp. Mặt khác, yêu cầu chất lượng của nhà trường giao cho mỗi năm cần phải nâng lên và giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường nhằm nâng cao kết quả nhận thức và học tập của học sinh. Tuy nhiên, bản thân tôi và các đồng nghiệp trong trường cũng thấy còn hạn chế trong việc không thể “cầm tay” hướng dẫn cho từng cá nhân học sinh và giáo viên cũng không thể đọc và sửa hết bài của các em tại lớp trong 1 – 2 tiết làm văn,… 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Văn nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn vậy, người viết phải biết trình bày ý kiến của mình và đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục, nghĩa là phải biết lập luận. chương trình Ngữ Văn lớp 11 trong phân môn làm văn, trong đó có kiểu bài văn nghị luận học sinh sẽ đi sâu vào hai dạng đề nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Sau đây tôi xin lần lượt rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 11 Kĩ năng phân tích đề Phân tích đề là công việc trước tiên trong quá trình làm một bài văn nghị luận nhưng lại là khâu mà phần lớn học sinh bỏ qua. Bởi theo các em nghĩ nếu phân tích đề sẽ mất thời gian làm bài. Thực tế cho thấy, một bài văn làm trong 45 – 90 phút, học sinh chỉ mất khoảng 5 – 10 phút phân tích đề. Khi phân tích đề cần đọc kĩ đề bài, chú ý những từ ngữ then chốt để xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận, phạm vị tư liệu cần sử dụng. Trước tiên, phương pháp tôi đã vận dụng để phân tích đề là phương pháp nêu vấn đề. Phương pháp này được tiến hành thông qua việc giáo viên hoặc học sinh đưa ra một tình huống có vấn đề nảy sinh trong bài học hoặc trong cuộc sống. Nó giúp học sinh biết cách giải quyết vấn đề và rèn kĩ năng tư duy. Mục tiêu của phương pháp này mà tôi áp dụng là rèn kĩ năng phát hiện, nhận biết và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập, đặc biệt khi làm văn và trong cuộc sống của học sinh. Sau đây là ví dụ về việc sử dụng tình huống nêu vấn đề khi phân tích đề văn nghị luận xã hội và đề văn nghị luận văn học Đề 1Anh chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay? Đề 2 Cảm nhận của anh chị về tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II. Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và dùng thước gạch chân những từ ngữ then chốt VD Đề 1 Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay. Đề 2 Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II. Hoạt động 1 Học sinh đọc kĩ đề và cho biết đề nào có định hướng cụ thể, đề nào đòi hỏi người viết phải tự xác định hướng triển khai? Dự kiến học sinh trả lời + Đề 1 là “đề đóng” vì đây là dạng đề định hướng rõ nội dung nghị luận. + Đề 2 là “đề mở” yêu cầu bàn về tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Tự tình bài II, nhưng chưa rõ, vì vậy đòi hỏi người viết phải tự xác định hướng triển khai. Hoạt động 2 Giáo viên đặt câu hỏi Vấn đề nghị luận của mỗi đề là gì? Dự kiến học sinh trả lời Đề 1 Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay. Đề 2 Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II. Nhưng học sinh chưa hiểu Vấn đề nghị luận nêu ở đề 2 Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II đó là tâm sự gì? Giáo viên tiếp tục sử dụng phương pháp gợi mở. Đây là phương pháp dẫn dắt học sinh từng bước tìm hiểu vấn đề bằng những câu hỏi gợi mở Đề 2 Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II là tâm sự về vấn đề gì? Tâm sự đó được bộc lộ qua diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài Tự tình bài II ra sao? Và được biểu hiện trong bài thơ Tự tình bài II như thế nào? Dự kiến học sinh trả lời Tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình bài II là tâm sự về tình duyên, về hạnh phúc lứa đôi. Tâm sự đó được bộc lộ qua diễn biến tâm trạng cô đơn, buồn tủi, chán chường, đau khổ và cả sự phẫn uất, phản kháng. Hoạt động 3 Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định nội dung nghị luận của mỗi đề? Dự kiến học sinh trả lời Đề 1 Từ vấn đề nghị luận trên có thể thấy Thực phẩm hiện nay phong phú và đa dạng, bên cạnh những thực phẩm đảm bảo chất lượng, an toàn thì cũng có nhiều loại thực phẩm không an toàn, kém chất lượng đang được toàn xã hội quan tâm. Đồng thời cần đưa ra giải pháp khắc phục tình trạng trên. Đề 2 Nêu cảm nghĩ của mình về tâm sự và diễn biến tâm trạng của Hồ Xuân Hương cô đơn, chán chường, đau khổ, phẫn uất, khát khao được sống hạnh phúc,… Hoạt động 4 Giáo viên vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp nêu vấn đề, gợi mở đề cho mỗi đề Phạm vi bài viết đến đâu? Dẫn chứng, tư liệu thuộc lĩnh vực đời sống xã hội hay văn học? Học sinh nghe và lượt lượt trả lời cá nhân, cả lớp nghe và nhận xét, góp ý. Giáo viên nghe và nhận xét, chốt ý. Dự kiến học sinh trả lời Phạm vi nghị luận Đề 1 Bài viết chỉ xoay quanh vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay. Đề 2 Bài viết xoay quanh tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài thơ Tự tình bài II. Nếu học sinh không xác định được điều này, khi viết sẽ rơi vào tình trạng xa đề, viết lan man hay viết mà không hiểu những gì mình đang viết,… Dẫn chứng, tư liệu Đề 1 Học sinh lấy dẫn chứng, tư liệu từ cuộc sống và kinh nghiệm của bản thân khi lựa chọn, sử dụng, chế biến thực phẩm, điều này sẽ giúp học sinh có cách nhìn nhận đúng vấn đề. Đề 2 Học sinh lấy dẫn chứng trong bài thơ Tự tình bài II và từ chính cuộc đời của Hồ Xuân Hương cũng như những bài thơ khác của bà có liên quan. Hoạt động 5 Giáo viên tiếp tục yêu cầu học sinh hãy xác định thao tác nghị luận sẽ sử dụng trong bài viết? Yêu cầu về phương pháp Đề 1 Sử dụng thao tác lập luận bình luận, giải thích; dùng dẫn chứng từ thực tế xã hội là chủ yếu. Đề 2 Sử dụng thao tác lập luận phân tích kết hợp với nêu cảm nghĩ; dẫn chứng lấy trong bài thơ Tự tình bài II là chủ yếu. Như vậy, sau khi giáo viên hướng dẫn, học sinh đã có kĩ năng phân tích đề và biết cách phân tích đề khi gặp bất kì dạng đề, kiểu đề nào. Nghĩa là học sinh đã hiểu các bước phân tích đề cho mỗi đề. Kĩ năng lập dàn ý Lập dàn ý là công việc lựa chọn và sắp xếp những nội dung cơ bản dự định triển khai vào bố cục ba phần của văn bản theo trình tự logíc. Lập dàn ý giúp người viết bao quát được những nội dung chủ yếu, những luận đểm, luận cứ cần triển khai, phạm vi và mức độ nghị luận,…nhờ đó mà người viết không bỏ sót những ý quan trọng, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết, hay tránh được tình trạng xa đề, lạc đề hoặc lặp ý. Hơn nữa, có dàn ý người viết sẽ phân phối thời gian làm bài hợp lí, không bị rơi vào tình trạng “đầu voi đuôi chuột” như đã thấy trong khá nhiều bài làm văn ở nhà trường. Quy trình lập dàn ý bao gồm Xác lập luận điểm, luận cứ. Sắp xếp luận điểm, luận cứ theo một trình tự logíc, chặt chẽ. Dàn ý chi tiết MB Giới thiệu và định hướng triển khai vấn đề. TB Triển khai lần lượt các luận điểm, luận cứ và sắp xếp chúng theo một trình tự hợp lí, chặt chẽ. KB Khẳng định, nhấn mạnh hoặc mở rộng vấn đề. Để rèn kĩ năng lập dàn ý, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau Phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp này được tiến hành như sau + Trước tiên, giáo viên nêu vấn đề, xác định các yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi nhóm. Cụ thể ở đây, giáo viên yêu cầu học sinh xác lập luận điểm, luận cứ và sắp xếp luận điểm, luận cứ theo trình tự hợp lí, logíc. + Giáo viên tổ chức chia lớp thành 4 nhóm, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm Hoạt động 1 Hãy xác lập luận điểm, luận cứ cho đề 1. + Các nhóm tiến hành thảo luận trong 5 – 10 phút. Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên theo dõi, quan sát và bao quát các nhóm để lắng nghe ý kiến thảo luận của học sinh, nhắc nhở những học sinh thiếu tập trung tham gia thảo luận nhóm,… Phương pháp gợi mở khi thấy học sinh chưa biết tìm ý, giáo viên có thể gợi ý bằng một số câu hỏi gợi mở 1 Thực phẩm hiện nay có nhiều loại, phong phú và đa dạng như thế nào? Nhưng tại sao vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang được toàn xã hội quan tâm? 2 Như thế nào thì được coi là thực phẩm chất lượng, an toàn? Thực phẩm chất lượng, đảm bảo an toàn đem lại những lợi ích gì? 3 Những thực phẩm không an toàn, kém chất lượng ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe người sử dụng? 4 Làm thế nào để vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm không còn là nỗi lo đối với người sử dụng? Như vậy khi học sinh trả lời được những câu hỏi trên tức là học sinh đã hiểu cần triển khai bài viết gồm những luận điểm nào và trong mỗi luận điểm đó có bao nhiêu luận cứ. Đến đây giáo viên kết hợp sử dụng phương pháp thuyết trình. Mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Các nhóm khác theo dõi, có thể chất vấn, trao đổi, nhận xét, bổ sung ý kiến. Tiếp đến, giáo viên tổng hợp các ý kiến của học sinh, liên kết các ý kiến khác nhau lên bảng. Sau đó giáo viên sử dụng bảng phụ có viết sẵn luận điểm, luận cứ để học sinh đối chiếu với kết quả của nhóm mình. Đến đây giáo viên nhấn mạnh những luận điểm quan trọng, bổ sung những luận điểm, luận cứ cần thiết. Hoạt động 2 Học sinh dựa vào các luận điểm, luận cứ vừa tìm, hãy sắp xếp chúng theo trình tự hợp lí, logíc? Học sinh làm việc cá nhân. Giáo viên tiếp tục sử dụng phương pháp thuyết trình yêu cầu học sinh đứng lên trình bày. Học sinh trả lời, giáo viên cho lớp nhận xét, bổ sung, góp ý. Cuối cùng giáo viên treo bảng phụ ghi sẵn dàn ý chi tiết để chốt ý cho phần lập dàn ý Lập dàn ý đề 1 MB Giới thiệu vấn đề nghị luận và định hướng triển khai vấn đề. TB Học sinh lần lượt sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo trình tự sau LĐ1 Thực trạng của vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay Thực phẩm hiện nay có nhiều loại, phong phú và đa dạng như rau, củ, quả, thịt, cá, trứng, sữa,… Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người sử dụng. LĐ2 Thực phẩm an toàn, chất lượng Thực phẩm an toàn, chất lượng là những thực phẩm được sản xuất, chế biến hợp vệ sinh, được rửa sạch, nấu chín, đã qua kiểm định, có ghi rõ nơi sản xuất, chế biến, ngày tháng năm sản xuất và hạn sử dụng,… Thực phẩm an toàn, chất lượng đem lại những lợi ích thơm ngon, bổ dưỡng, đem lại sức khỏe tốt cho người sử dụng. – LĐ3 Thực phẩm không an toàn, kém chất lượng Thực phẩm ôi thui, nấm mốc, không rõ nguồn gốc, không ghi ngày sản xuất, nơi sản xuất, hạn sử dụng; sản xuất, chế biến không đảm bảo vệ sinh an toàn, sử dụng chất bảo quản, chất phụ gia, thuốc kích thích, thuốc tăng trưởng,… được coi là thực phẩm không an toàn, kém chất lượng. Thực phẩm không an toàn, kém chất lượng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng gây ngộ độc thực phẩm, tiêu chảy cấp, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh ung thư, tiểu đường, các bệnh về đường ruột, thậm chí có thể dẫn đến tử vong. – LĐ4 Cần nâng cao ý thức vệ sinh an toàn thực phẩm Đối với người sản xuất, chế biến thực phẩm cần phải làm gì trước vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm? Đối với người tiêu dùng nên lựa chọn và sử dụng những thực phẩm như thế nào là vệ sinh an toàn? Cách 2 Sơ đồ hóa dàn ý MB Luận điểm trung tâm Luận điểm 1 Luận điểm 2 TB Luận cứ 1 Luận cứ 2 Luận cứ 1 Luận cứ 2 Dẫn chứng Dẫn chứng Dẫn chứng Dẫn chứng minh họa minh họa minh họa minh họa Chốt ý Chốt ý KB Khẳng định, nhấn mạnh hoặc mở rộng vấn đề. Cách thực hiện dàn ý trên cho một đề văn cụ thể Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự – Lê Hữu Trác. MB Giới thiệu vấn đề nghị luận Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự – Lê Hữu Trác. TB LĐ1 Sự cao sang, quyền uy cùng cuộc sống hưởng lạc đến cực điểm của nhà chúa. LĐ2 Thái độ và những suy nghĩ của tác giả về sự cao sang, quyền uy nơi phủ chúa Luận cứ 1 Quang cảnh trong phủ chúa Luận cứ 2 Cung trong Luận cứ 1 Thái Luận cứ 2 Những suy nghĩ, nhận phủ chúa cách sinh hoạt. độ của tác giả xét của tác giả Vào phủ Vườn Khuôn Đến Trong Cách Vào Mặc dù khen cái chúa trong viên nội phủ xưng khám đẹp, sự giàu phải phủ phủ cung “người hô gọi bệnh cho sang nơi phủ “qua “cây chúa có của thế giữ cửa chúa thế tử chúa, song thái mấy lần cối um cái tử phải truyền Trịnh phải quỳ độ tác giả coi cửa” với tùm, điếm “qua báo rộn là lạy , xin thường danh lợi, “những chim “hậu năm ràng,… “Thánh phép; không đồng tình dãy kêu ríu mã sáu lần ”. thượng xem trước cuộc sống hành rít, quân trướng ”, thế xong viết quá no đủ, tiện lang danh túc gấm… tử là tờ khải nghi ấy. quanh hoa đua trực”, ” “Đông dâng lên. co,….” thắm, … cung …”. thế tử” Đứng Khi Đường Bệnh trước được vào nội của thế cảnh phủ mời ăn cung tử “vì chúa sáng thế tử, ở trong “Bước “mâm “ở chốn chân vào vàng, trong màn đây mới chén tối om, che hay cảnh bạc, đồ không trướng giàu ăn toàn thấy phủ, ăn sang của của cửa quá no, vua chúa ngon ngõ gì mặc ….” vật cả,…” quá lạ….” ấm,…” èBức tranh chân thực, sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền uy è Đó là những suy nghĩ, nhận xét rất chân thực, qua đó nơi phủ chúa Trịnh được ghi lại khá tỉ mỉ,… bộc lộ thái độ coi thường danh lời của tác giả. KB Khẳng định vấn đề và bộc lộ thái độ cảm thông, đồng tình với thái độ coi thường danh lợi của tác giả. Kĩ năng viết đoạn văn Để rèn kĩ năng viết đoạn văn, tôi đã triển khai tổ chức giờ làm văn viết và giờ làm văn miệng. Giờ làm văn viết Khi rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận, tôi không ôm đồm trong một tiết yêu cầu học sinh phải viết xong cả bài văn mà chủ yếu hướng các em tập viết tốt từng ý, từng đoạn, xong ý này, đoạn này tôi mới chuyển sang ý khác, đoạn khác. Hơn nữa, khi các em viết đoạn văn, tôi thường hướng dẫn các em viết đoạn văn theo nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp diễn dịch, quy nạp hay song hành để có những đoạn văn khác nhau cho cùng một luận điểm và cần chú ý những câu chuyển ý, liên kết đoạn để các ý, các đoạn trong bài viết không bị rời rạc. Cụ thể Bước 1 Trước hết, giáo viên giới thiệu cho học sinh phương pháp diễn dịch, quy nạp là gì? Diễn dịch là từ tiền đề chung, có tính phổ biến suy ra những kết luận về những sự việc, hiện tượng riêng. Có thể khái quát phương pháp này như sau Câu chốt Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu n Quy nạp là từ cái riêng suy ra cái chung, từ những sự vật cá biệt suy ra nguyên lí phổ biến. Có thể khái quát phương pháp này như sau Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu n Chốt ý Bước 2 Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn theo hai phương pháp trên. Bước 3 Giáo viên giao một vấn đề một luận điểm yêu cầu học sinh thực hiện theo nhóm. Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm viết theo một phương pháp. Ví dụ giáo viên cho luận điểm Thực trạng của vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay. Yêu cầu học sinh thực hiện theo nhóm, mỗi nhóm viết theo một phương pháp trên. Giáo viên chuẩn bị sẵn đoạn văn cho từng phương pháp Đoạn văn diễn dịch Vấn đề vệ sinh thực phẩm ở nước ta hiện nay còn nhiều tồn tại 1. Bởi các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và ngoài nước nhập vào với nhiều chủng loại 2. Việc sử dụng chất phụ gia trong chế biến thực phẩm trở nên phổ biến 3. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng 4. Những móm ăn chế biến sẵn như thịt, giò, chả,… được bày bán trên thị trường chưa qua kiểm dịch 5. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu, hóa chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo quản không theo đúng quy định vẫn còn tồn dư trong thực phẩm 6. Hay bảo quản thực phẩm không đúng cách cũng tạo điểu kiện cho khuẩn, nấm mốc phát triển… dẫn đến các vụ ngộ độc thực phẩm cấp tính vẫn thường xuyên xảy ra ở các thành phố cũng như ở nông thôn và có chiều hướng tăng năm sau cao hơn năm trước 7. Đó là chưa kể đến sự ngộ độc do tích lũy độc chất trong cơ thể và phát sinh những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư 8. Ghi chú Câu 1 là câu chủ đề, nêu ý chính của đoạn văn. Các câu còn lại triển khai làm rõ câu chủ đề. – Đoạn văn quy nạp Trên thị trường hiện nay, các loại thực phẩm được sản xuất, chế biến trong nước và ngoài nước nhập vào ngày càng nhiều chủng loại 1. Việc sử dụng các chất phụ gia trong chế biến thực phẩm trở nên phổ biến 2. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng 3. Những món ăn chế biến sẵn đang được bày bán công khai trên thị trường chưa qua kiểm dịch 4. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu, hóa chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo quản không đúng quy định vẫn còn tồn dư trong thực phẩm 5. Hay bảo quản thực phẩm không đúng cách cũng tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm mốc phát triển… dẫn đến các vụ ngộ độc cấp tính vẫn thường xuyên xảy ra ở thành phố cũng như ở nông thôn và có chiều hướng gia tăng 6. Đó là chưa kể đến sự ngộ độc do tích lũy độc chất trong cơ thể và phát sinh những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư 7. Điều đó cho thấy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta rất cần sự quan tâm của toàn xã hội ngay hôm nay 8. Ghi chú Câu 8 là câu chốt đoạn từ các câu trước đó triển khai. Bước 4 Học sinh trình bày đoạn văn trước lớp theo nhóm. Nhóm 1 trình bày đoạn văn viết theo phương pháp diễn dịch Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta hiện nay là vấn đề được nhắc đến thường xuyên 1. Vì đây là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng liên quan đến sức khỏe của người dân nhưng chưa được giải quyết đến nơi đến chốn 2. Theo thống kê của Bộ y tế thì trong năm qua có hơn 900 người bị ngộ độc thực phẩm và trong đó có tới 7 người tử vong 3. Mỗi năm cứ đến khoảng mùa nóng bắt đầu thì vấn đề vệ sinh thực phẩm lại được nhắc đến và “ tháng an toàn thực phẩm” lại được phát động 4. Từ các cơ quan đến toàn xã hội đều rung lên hồi chuông cấp báo về tình trạng mất an toàn thực phẩm từ rau quả cho đến thức ăn, đồ uống 5. Vấn đề quan trọng là ý thức của mỗi người 6. Phần nữa nhà nước cần có một đội ngũ kiểm tra thường xuyên, nếu chỉ làm từng đợt thì hễ có kiểm tra thì người ta làm tốt còn không thì thôi 7. Và khi phát hiện đơn vị vi phạm, cũng không kiên quyết xử lí 8. Và một nguyên nhân nữa là chưa có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng với các địa phương 9. Nhóm 2 trình bày đoạn văn viết theo phương pháp quy nạp Thực phẩm trên thị trường hiện nay có nhiều loại như rau, củ, quả, thịt, cá, trứng,…1 Nhưng nhiều năm trở lại đây người tiêu dùng liên tục nghe những tin dữ như rau bị phun thuốc sâu, thuốc tăng trưởng nhiều, gia cầm bị dịch cúm, gia sức bị dịch bệnh 2. Xuất phát từ lòng tham, từ sự ích kỉ tư lợi quá xem nhẹ tính mạng, sự sống của người khác nên nhiều cá nhân, doanh nghiệp trong sản xuất,… đã không tuân thủ yêu cầu về chất lượng thực phẩm 3. Họ vẫn giết mổ, bày bán những con gia súc, gia cầm chưa qua kiểm dịch 4. Thậm chí, gần đây trong nhiều loại nước chấm, gia vị các cơ quan chức năng còn phát hiện dấu hiệu quá liều lượng cho phép của một vài loại chất độc như MC3D, chất bảo quản, phẩm màu,… 5. Nhưng hàng ngày con người vẫn phải ăn, phải uống nên nguy hiểm từ nguồn thực phẩm như lưỡi gươm treo lơ lửng trên mỗi mái nhà 6. Vì thế, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là việc làm cần giải quyết ngay để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và nâng cao chất lượng cuộc sống 7. Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét chéo nhóm. Cuối cùng giáo viên nhận xét, chốt ý đúng và rút kinh nghiệm cho học sinh. Với phương pháp hoạt động trên sẽ giúp học sinh trên mọi đối tượng tự giác phát huy được kĩ năng viết đoạn văn theo nhiều phương pháp và các đoạn văn được xây dựng trong bài viết sẽ linh hoạt, đa dạng phong phú hơn cách viết một chiều theo một phương pháp gây nhàm chán, không lôi cuốn người học, người đọc. Như vậy chắc chắn sẽ có nhiều điều thú vị hơn trong giờ viết văn, đặc biệt đoạn văn học sinh trình bày sẽ có nhiều cách lập luận khác nhau. Giờ làm văn miệng Trong khó khăn chung của việc giảng dạy làm văn ở phổ thông, việc giảng dạy giờ làm văn miệng thường bị bỏ qua, thay vào đó là những giờ làm văn viết kéo dài, hoặc có chăng chủ yếu cũng chỉ là việc đơn điệu giáo viên ra một đề văn và học sinh chuẩn bị trong 15 – 20 phút rồi giáo viên chỉ định một vài học sinh lên trình bày, cả lớp nhận xét, phản biện,… Cuối cùng giáo viên nhận xét, góp ý, chỉnh sửa và cho điểm,…và giờ làm văn viết kết thúc. Thì giờ làm văn miệng có những đặc thù riêng. Thời gian học sinh chuẩn bị tương đối ít. Học sinh phải trực tiếp với một đối tượng giao tiếp hiện diện, khoảng cách giữa hai tư duy và ngôn ngữ rút ngắn, đòi hỏi sự nhanh nhạy, linh hoạt cơ động trong sự lựa chọn từ, sắp xếp ý và diễn đạt sao cho mạch lạc, rõ ràng và có sức thuyết phục. Đã thế, trong giờ làm văn miệng, học sinh cần phải huy động những yếu tố cần thiết khi làm văn mà còn phải vận dụng nhiều yếu tố đặc thù của lời nói kết hợp với những hoạt động hình thể. Đó là đặc trưng của giờ làm văn miệng mà giờ làm văn viết không có được. Trong giờ làm văn miệng hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp. Không khí giờ làm văn miệng rất sinh động, hấp dẫn dễ kích thích hứng thú hoạt động của cả lớp. Đành rằng giờ làm văn miệng phải chú ý đến yêu cầu rèn luyện ngôn ngữ nói của học sinh. Qua cách trình bày, diễn đạt, qua phong cách, qua điệu bộ của học sinh, qua bản trình bày hay ý kiến phát biểu của học sinh,… giáo viên có cơ hội uốn nắn về mặt ứng xử, đồng thời bổ sung, điều chỉnh những kiến thức khác cho học sinh. Như vậy giờ làm văn miệng có ý nghĩa giáo dục toàn diện học sinh, đặc biệt rèn luyện ngôn ngữ nói, phương pháp tư duy và nghệ thuật giao tiếp. Tùy thuộc vào điều kiện chuẩn bị của học sinh theo hướng dẫn của giáo viên, hoạt động của giờ làm văn miệng có thể có những hình thức khác nhau Giáo viên cho một vấn đề để cả lớp cùng chuẩn bị ở nhà và giáo viên yêu cầu một vài học sinh không nhất thiết phải là học sinh khá chuẩn bị kĩ hơn và trình bày trước lớp đoạn văn đã giao. Trong khi bạn trình bày, cả lớp sẽ trao đổi cùng làm rõ vấn đề. Ví dụ Bàn về một vẻ đẹp của bài thơ Câu cá mùa thu Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Học sinh có thể chọn viết đoạn văn về vẻ đẹp của bức tranh mùa thu ở nông thôn Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ hoặc vẻ đẹp tâm hồn thi nhân. Giáo viên có thể ra một đề bài tại lớp, học sinh chuẩn bị trong 15 phút rồi phát biểu trao đổi và chọn một trong các luận điểm vừa tìm được để viết đoạn văn + đoạn văn tại chỗ. Ví dụ + Đọc sách đối với trí tuệ giống như thể dục đối với cơ thể. Đọc cuốn sách hay cũng giống như trò chuyện với một người bạn thông minh. Học sinh sau khi viết xong, lên bảng trình bày trước lớp. Giáo viên sẽ chọn những đoạn văn hay làm văn mẫu để cả lớp cùng học tập và làm tư liệu trong quá trình làm văn. III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Theo phân phối chương trình Ngữ Văn 11 năm nay của tổ dưới sự chỉ đạo của nhà trường, việc sắp xếp các tiết làm văn sau bài học cung cấp kiến thức mới, học sinh có thời lượng làm văn cũng tương đối nên giáo viên cũng đã tận dụng được điểm này để tăng cường luyện tập, hướng dẫn học sinh làm văn một cách triệt để. Kết quả học sinh đã có kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý và viết đoạn văn, bài văn nghị luận với những kiểu bài, dạng đề có liên quan đến những kiến thức đã học vào làm văn cũng như việc vận dụng những kiến thức ấy vào thực tế cuộc sống. Số liệu thống kê trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm Lớp Sĩ Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém số SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ % % % % % 11A4 41 0 0 2 18 21 11A5 43 0 0 3 12 28 11A6 42 0 0 2 11 29 Kết quả sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này như sau Lớp Sĩ Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém số SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ % % % % % 11A4 41 1 10 22 7 1 11A5 43 3 12 18 10 0 11A6 42 0 9 19 12 2 ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận lớp 11 là việc làm cần thiết trong quá trình giảng dạy môn Ngữ Văn. Học sinh được rèn luyện thường xuyên và có phương pháp cụ thể sẽ giúp các em có bản lĩnh vững vàng, biết cách lập luận, thuyết phục người khác nghe theo ý kiến của mình, tránh được việc những người quen suy nghĩ, diễn đạt bằng những ý vay mượn, những lời có sẵn,… Kiến thức đã học lưu giữ trong đầu các em lâu dài và tránh được cách giảng dạy áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của giáo viên tới học sinh. Mặt khác, giúp các em chủ động, sáng tạo trong học tập làm cho các em mạnh dạn hơn khi đưa ra ý kiến của mình thuyết phục người khác. Bên cạnh giáo viên lưu giữ lại những bài viết tốt, lập luận chặt chẽ, biết triển khai vấn đề, trình bày rõ ràng, đủ ý,… để làm mẫu cho các bạn cùng lớp học tập. Ngoài ra, việc giáo viên sửa bài cho học sinh nếu chỉ đọc rồi sửa bài viết của một số học sinh thì những học sinh khác không thể biết bạn mình viết như thế nào và chỗ nào chưa đạt. Vì vậy mong nhà trường sắm thêm máy overhead để tiện cho việc sửa bài của học sinh. Từ đó, mỗi học sinh có thể tự rút kinh nghiệm và tự sửa bài cho mình. Có thể nói đây là một chuyên đề tuy không mới mẻ ở các trường THPT nhưng đối với đối tượng học sinh của trường THCS và THPT Bàu Hàm – một ngôi trường mà phần lớn là học sinh vùng sâu vùng xa, người dân tộc nhiều lại non kém khi làm văn, đặc biệt là văn nghị luận thì tôi thấy sau khi thực hiện chuyên đề này học sinh đã có được kĩ năng làm văn và kết quả học tập cũng được nâng lên. Trong quá trình xây dựng chuyên đề, do hạn chế về tư liệu cũng như kinh nghiệm còn non nớt nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý thầy cô trong tổ Văn, các bạn đồng nghiệp, Hội đồng khoa học các cấp xét duyệt sáng kiến kinh nghiệm này góp ý, bổ sung thêm để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh, để có thể áp dụng sớm vào giảng dạy rèn kĩ năng làm văn nghị luận lớp 11 có hiệu quả hơn ở các trường THPT vùng sâu, vùng xa không chỉ ở huyện Trảng Bom mà còn ở các trường học khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa lớp 11, tập 1 – Phan Trọng Luận Tổng chủ biên. NXB GD năm 2006. Sách giáo viên lớp 11, tập 1 – Phan Trọng Luận Tổng chủ biên. NXB GD năm 2008. Sách giáo khoa lớp 10, tập 2 – Phan Trọng Luận Tổng Chủ biên. NXB GD năm 2006. Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh – Bộ giáo dục và đào tạo. Tài liệu Phương pháp dạy học Văn – Phan Trọng Luận Chủ biên. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 1998. Xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI THỰC HIỆN BÙI THỊ THỦY SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị Trường THCS và THPT Bàu Hàm Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Bàu Hàm, ngày tháng năm 20 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học 2011 – 2012 Sáng kiến kinh nghiệm RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN LỚP 11 Họ và tên tác giả BÙI THỊ THỦY Chức vụ Giáo viên Đơn vị Trường THCS và THPT Bàu Hàm Lĩnh vực – Quản lý giáo dục – Phương pháp dạy học bộ môn Ngữ Văn – Phương pháp giáo dục – Lĩnh vực khác Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng Tại đơn vị Trong Ngành Tính mới Có giải pháp hoàn toàn mới Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có Hiệu quả – Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả Khả năng áp dụng Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào đời sống Tốt Khá Đạt Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng Tốt Khá Đạt XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Ký tên và ghi rõ họ tên Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu
rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận