🐶 18 Kinh Cần Thuộc

Dân số của thành phố này tương đương với dân số các thành phố trực thuộc Trung ương như Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng. Thành phố Biên Hoà là đô thị lọai I, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Đồng Nai. Ai giữ luật vì tình yêu thì tình yêu sẽ phát huy người ấy. Chính tình yêu làm cho việc giữ luật trở nên nhẹ nhàng: “Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Tình yêu giảm bớt khổ nhọc trong công việc: “Ở đâu có tình yêu KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN. Chúng con lạy ơn Đức Chúa Những Kinh Cần Thuộc. 18. PHÉP LẦN HẠT NGẮM TẮT. NĂM SỰ VUI. Kinch Sáng. 1. Dấu Thánh Giá (Dấu Đơn) 2. Kinh Vì Dấu (Dấu Kép) Lạy Chúa bọn chúng con, vì dấu (+) Thánh giá chỉ, xin chữa (+) bọn chúng con, mang lại khỏi (+) quân địch. Nhân danh Cha (+) với Con với Thánh Thần. Amen. Bạn đang xem: Các kinh cần thuộc. 3. Chính chủ cần gửi bán Mặt tiền đường 18m cách đường DT758 Tân Hưng Hớn Quản có 150m thôi.. Giá chỉ 147tr/1m ngang..Thích hợp làm nhà xưởng, kinh doanh nhà hàng, v v v Bạn không cần phải lo lắng. Dưới đây là danh sách 18 loại thuốc điều hòa kinh nguyệt tốt nhất hiện nay mà bạn có thể tham khảo và tin dùng. 1. Viên uống điều hòa kinh nguyệt Kobayashi nhật bản – Thuốc uống điều hòa kinh nguyệt tốt nhất hiện nay. Viên uống điều hòa Theo đánh giá của ngành y tế Sóc Trăng, 18 tháng qua số người nghỉ việc đa số thuộc nhóm nhân lực đã qua đào tạo và có kinh nghiệm. Trong khi đó, nhóm mới tuyển dụng chưa qua đào tạo, cần có thời gian để làm quen công việc. Thực ra công giáo còn rất nhiều kinh, nếu bạn theo đạo và đi lễ thì sớm sẽ thuộc kinh, bọn mình chẳng cần học mà đã thuộc từ nhỏ nên đừng lo. Reply Lisa June 24, 2019, 1:09 pm Theo các chuyên viên nhãn khoa, tùy thuộc vào từng độ cận cụ thể và năng lực thị lực của đôi mắt mà fan bị cận thị có nên treo kính giỏi không. Vậy thể: Cận 0,25 độ: Đây là độ cận thị nhỏ nhất với không tác động nhiều tới cuộc sống thường ngày hàng ngày RizQhe. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG SÁCH GIÁO LÝ DỰ TÒNG “Sách Giáo Lý phải trình bày một cách trung thành và có hệ thống giáo huấn của Thánh Kinh, Truyền Thống sống động trong Hội Thánh và Huấn Quyền đích thực, cũng như gia sản thiêng liêng của các Giáo Phụ, các thánh nam nữ của Hội Thánh, để có thể giúp người ta hiểu biết hơn về Mầu nhiệm Kitô giáo và làm sinh động đức tin của dân Thiên Chúa.” Tông hiến KHO TÀNG ĐỨC TIN số 3, ngày 11-10-1992 Dạy đức tin là đưa người ta đến với Chúa Kitô và gặp được Ngài bằng cách sống đạo. Biết mà không sống hoặc không có cơ hội hay thói quen đưa đến thực hành là một thiếu sót. Vì thế chúng tôi theo đường lối dẫn giải sau đây I. DIỄN TIẾN MỘT TIẾT DẬY GIÁO LÝ 1. Cầu nguyện đầu giờ. 2. Công bố Lời Chúa. 3. Trình bầy bài giáo lý. 4. Cầu nguyện theo nội dung bài giáo lý. 5. Tóm lược. 6. Quyết tâm sống. 7. Cầu nguyện kết thúc. II. TRÌNH BẦY CÁC PHẦN TRONG DIỄN TIẾN TRÊN 1. Cầu nguyện đầu giờ Giúp cho Dự Tòng cầu nguyện bằng cách đọc thuộc các Kinh thông dụng. Đầu giờ học nên dành ra khoảng 5 phút để đọc một loạt các kinh thông dụng; chẳng hạn Kinh Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh, Tin, Cậy, Mến, Ăn năn tội... hoặc thêm kinh này bỏ kinh kia, và lời cầu nguyện của bài học lần trước. Dĩ nhiên, việc học kinh là quá dễ dàng không cần phải tốn thì giờ, song cũng đừng quá trông chờ vào việc tự học riêng. Tốt hơn hết, nên lợi dụng thời gian theo học ở lớp để vừa học kinh vừa cầu nguyện, và vừa học vừa nhớ bài. Ngay cả việc làm Dấu Thánh Giá cũng nên tập ngay từ đầu cho các Dự Tòng làm chậm rãi với tất cả sự ý thức về đức tin mình tuyên xưng. Thói quen cầu nguyện sẽ tạo thành truyền thống, và truyền thống sẽ giúp ích rất nhiều cho đời sống đạo. 2. Công bố Lời Chúa Sau phần cầu nguyện đầu giờ là phần công bố Lời Chúa. Lời Chúa được công bố là số chương, số câu ghi ở đầu bài. Có bài phần công bố Lời Chúa chỉ có một câu. Trường hợp Lời Chúa có nhiều câu, chúng tôi ghi lại câu tóm lược ý chính của đoạn Lời Chúa để dễ gợi ý, dẫn giải. Trước khi công bố Lời Chúa, chúng ta dùng một câu chuyện hoặc một sự kiện thời sự hoặc một vài lời gợi ý để giúp người dự tòng chuẩn bị tâm hồn lắng nghe Lời Chúa. Công bố Lời Chúa * Giáo lý viên hay người dự tòng công bố. * Kết thúc đọc Đó là Lời Chúa. 3. Trình bầy bài học giáo lý. - Giúp cho Dự Tòng nhớ những điều căn bản ngay tại lớp. Đầu tiên là nhắc lại quyết tâm của bài học lần trước để các dự tòng tự kiểm. Dành phần lớn thời gian buổi học cho việc ôn lại các điểm chính yếu đã học lần trước hoặc từ đầu khoá học, theo cách tổng hợp, liên kết các bài học. Ôn tập bằng cách đặt ra những câu hỏi cho các Dự Tòng để nắm chắc sự lĩnh hội của từng Dự Tòng. Ghi lại trên bảng những ý chính bằng những sơ đồ giúp liên tưởng và dễ nhớ. Sau đó mới trình bày bài mới một cách chi li từng vấn đề, lâu lâu lại tóm lược ý chính và không ngại nhắc đi nhắc lại những câu hỏi tóm lược để Dự Tòng có thể thuộc bài ngay tại lớp; và hướng họ đến những quyết tâm hoán cải cụ thể. Mục đích là biết những điều chính yếu cách mạch lạc thì hơn là chồng chất những chi tiết tản mạn. - Giúp cho Dự Tòng làm quen với sách Thánh Kinh. Thánh Kinh Cựu Ước không dễ có trong tầm tay của các Dự Tòng, vì thế chúng tôi cho trích các đoạn văn quan trọng liên hệ đến lịch sử cứu độ thời Cựu Ước. Thánh Kinh Tân Ước thì khá phổ thông, hoặc ít ra Giáo Lý Viên cũng có thể mang tới cho Dự Tòng tham khảo tại lớp. Dạy cho các Dự Tòng biết cách mở sách Thánh Kinh, biết cách trích dẫn các số chương số câu, và yêu cầu một Dự Tòng đọc hoặc cả lớp đọc các đoạn Thánh Kinh liên hệ tới bài học. Vì thế, tập sách này phải được truyền đạt kèm theo cuốn Tân Ước. Thi thoảng có thể kết thúc giờ học bằng cách cho các Dự Tòng cùng đọc một đoạn Thánh Kinh, kèm theo lời cầu nguyện dẫn giải của Giảng Viên. - Giúp cho Dự Tòng theo học một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu bằng những câu chuyện, những hình ảnh rất cần một bản đồ nước Do Thái, những so sánh, những ví dụ cụ thể ..., nhất là một số bài hát hát cũng là một cách cầu nguyện tốt và có âm hưởng trong đời sống. 4. Cầu nguyện theo nội dung bài giáo lý. Sau khi đã hiểu bài giáo lý,chúng ta dẫn người dự tòng đến gặp gỡ Chúa qua những giây phút cầu nguyện. 5. Học thuộc lòng các câu tóm lược. Nên cho người dự tòng đọc nhiều lần câu tóm lược để họ nắm vững ý chính và thuộc lòng ngay tại lớp. 6. Quyết tâm sống . Từ bài học giáo lý,chúng ta rút ra một quyết tâm sống. Chúng ta có thể dựa vào quyết tâm được đề nghị trong sách hoặc tùy hoàn cảnh của người dự tòng đưa ra một quyết tâm phù hợp và đề nghị họ sống trong tuần. Lần sau,khi học bài mới,chúng ta sẽ giúp họ xét lại xem họ đã sống quyết tâm đó như thế nào. 7. Cầu nguyện kết thúc. Chúng ta cho người dự tòng đọc các kinh như kinh Tin kính, Cám ơn, Trông cậy, Ba câu lậy, hoặc lần hạt một chục. III. GIÚP NGƯỜI DỰ TÒNG LÀM QUEN VỚI SINH HOẠT TÔN GIÁO 1. Giúp cho Dự Tòng làm quen với các sinh hoạt tôn giáo để vừa biết đạo, vừa sống đạo như tham dự Thánh Lễ,Chầu Thánh Thể ... 2. Sinh hoạt cộng đoàn dự tòng Thỉnh thoảng nên có một buổi gặp gỡ chung giữa các dự tòng và Cha xứ, các giáo lý viên, các người đỡ đầu, một số tín hữu nhiệt thành để -Trao đổi cảm nghĩ, kinh nghiệm, thắc mắc. -Học hỏi chung về một vấn đề. -Bàn cách làm việc tông đồ. -Cầu nguyện chung,suy niệm lời Chúa. 3. Giáo Xứ cần tổ chức ba giai đoạn khai tâm Kitô giáo, một truyền thống đã có từ buổi sơ khai của Hội Thánh, để các Dự Tòng từng bước làm quen với cộng đoàn phụng vụ -Giai đoạn I Nghi thức Tiếp Nhận Dự Tòng và Xức Dầu Dự Tòng được cử hành sau khi đã học được một thời gian ngắn. -Giai đoạn II Nghi thức Ghi danh, Tuyển Chọn và Trao Kinh Tin Kính và kinh Lạy Cha, sau khi đã học gần xong Giáo lý đức tin. -Giai đoạn III Cử hành ba bí tích khai tâm gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Trong thời gian này vừa ôn tập, vừa bổ túc, và có thể học thêm Giáo Lý Hôn Nhân trước khi được Rửa Tội. Cả ba giai đoạn này nên cử hành trong thánh lễ của cộng đoàn, có sự hiện diện của người đỡ đầu và thân nhân, để Giáo Xứ hiệp thông và cầu nguyện cho các Dự Tòng. Lợi dụng lúc tập các nghi thức này để giới thiệu cụ thể với các Dự Tòng về địa điểm, tượng ảnh, ý nghĩa vật dụng, cách bái lạy, đi đứng trong nhà thờ. 4. Thời gian học giáo lý. Một Dự Tòng siêng năng kèm theo một chút thông minh có thể tiếp thu Giáo Lý Đức Tin trong một thời gian rất ngắn, nhưng chưa hẳn là đã xác tín để theo đạo và sống đạo. Thời gian học Giáo Lý Dự Tòng phải kéo dài ít nhất trong 3 tháng, mỗi tuần học 2 buổi, mỗi buổi một như vậy, mới mong giúp cho các Dự Tòng có một xác tín tôn giáo để rồi khi đã lựa chọn thì dấn thân đi đến cùng. BẢN KINH THÔNG DỤNG 1* DẤU THÁNH GIÁ Nhân danh Cha + và Con và Thánh Thần . Amen. hoăc Nhân danh Chúa Cha + và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen. dấu kép Lạy Chúa chúng con, vì dấu + Thánh Giá, xin chữa + chúng con, cho khỏi + kẻ thù. Nhân danh Cha + và Con và Thánh Thần. Amen. 2 * KINH SÁNG SOI Cúi xin Chúa sáng soi / cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen. 3* KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN Chúng con lạy ơn Đức Thánh Thần / thiêng liêng sáng láng vô cùng. Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống / đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con. - Chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống, - Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống / soi lòng dạy dỗ các thánh tông đồ, thì nay chúng con cũng xin Đức Chúa Trời / cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, an ủi dạy dỗ chúng con / làm những việc lành. Vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen. 4* KINH TIN Lạy Chúa con, con tin thật các một Đức Chúa Trời / là Đấng thưởng phạt vô cùng. Con lại tin thật Đức Chúa Trời có ba ngôi, mà Ngôi Thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Bấy nhiêu điều ấy / cùng các điều Hội Thánh dạy, thì con tin vững vàng, vì Chúa là Đấng thông minh, và chân thật vô cùng / đã phán truyền cho Hội Thánh. Amen 5* KINH CẬY Lạy Chúa con, con trông cậy vững vàng / vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu, thì Chúa sẽ ban ơn cho con / giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau được lên thiên đàng / xem thấy mặt Đức Chúa Trời / hưởng phước đời đời, vì Chúa là Đấng phép tắc / và lòng lành vô cùng / đã phán hứa sự ấy / chẳng có lẽ nào sai được. Amen. 6* KINH MẾN Lạy Chúa con, con kính mến Chúa hết lòng hết sức, trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa / thì con thương yêu người ta / như mình con vậy. Amen. 7* KINH LẠY CHA Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ . Amen. 8* KINH KÍNH MỪNG Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phước lạ. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen. 9* KINH SÁNG DANH Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời chẳng cùng. Amen. 10 * KINH TRƯỚC KHI XÉT MÌNH Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con. Xin soi sáng cho con / được biết mọi tội con đã phạm / trong ngày hôm nay hoặc trong những ngày qua hoặc lo, hoặc nói, hoặc làm điều gì lỗi nghĩa cùng Chúa, vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu, ban ơn cho con được ăn năn ghét tội, cùng dốc lòng chừa thật. Amen. 11* KINH ĂN NĂN TỘI Lạy Chúa con, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng, Chúa đã dựng nên con / và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa / thì con sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen. 12* KINH THÚ NHẬN Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng / và cùng anh chị em Tôi đã phạm tội nhiều / trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng đấm ngực. Vì vậy tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh chị em / khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Amen. 13*KINH TIN KÍNH Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật / hữu hình và vô tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. cúi mình Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria / và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phong-xi-ô Phi-la-tô. Ngày thứ ba / Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời / ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Và Người sẽ trở lại trong vinh quang / để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ, và tôn vinh với Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy. Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Tôi tuyên xưng có một phép Rửa để tha tội. Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau. Amen. 14* KINH CÁM ƠN Con cám ơn Đức Chúa Trời, là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con; lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người / chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá vì con, lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời, cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa, và đã cho phần xác con ngày hôm nay / được mọi sự lành, lại cứu lấy con / kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các thánh ở trên Nước thiên đàng / cám ơn Đức Chúa Trời thế nào, thì con cũng hiệp cùng các thánh / mà dâng cho Chúa con / cùng cám ơn như vậy. Amen. 15* KINH TRÔNG CẬY Chúng con trông cậy Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện / trong cơn gian nan thiếu thốn / Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng / hằng chữa chúng con cho khỏi sự dữ. Amen. - Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GiêsuThương xót chúng con. - Lạy Trái Tim cực thanh cực tịnh Rất Thánh Đức Bà Maria. - Cầu cho chúng con. - Lạy ông thánh Giuse là bạn thanh sạch Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh - Cầu cho chúng con. 16* CHUỖI MÂN MÔI NĂM SỰ VUI Thứ Nhất thì ngắm Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai – Ta hãy xin cho được ở khiêm nhường. Thứ Hai thì ngắm Đức Bà đi viếng bà thánh Isave - Ta hãy xin cho được lòng yêu người. Thứ ba thì ngắm Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá - Ta hãy xin cho được lòng khó khăn Thứ bốn thì ngắm Đức Bà dâng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh-Ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy. Thứ năm thì ngắm Đức Bà tìm được Đức Chúa Giêsu trong đền thánh, Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. NĂM SỰ THƯƠNG Thứ Nhất thì ngám Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu, Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên. Thứ Hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu chịu đánh đòn - Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng. Thứ Ba thì ngắm Đức Chúa Giêsu chịu đội mạo gai, Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng. Thứ Bốn thì ngắm Đức Chúa Giêsu vác cây thánh giá, Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá - Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá Chúa. NĂM SỰ SÁNG Thứ Nhất thì ngắm Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa . Thứ Hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu dự tiệc cưới Ca-na. ta hãy xin cho được vững tin vào quyền năng của Ngài. Thứ Ba thì ngắm Đức Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được hoán cải và đón nhận Tin Mừng . Thứ bốn thì ngắm Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành Lời Chúa . Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được năng kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể . NĂM SỰ MỪNG Thứ nhất thì ngắmĐức ChúaGiêsu sống lại,Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn. Thứ Hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời - Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời. Thứ Ba thì ngắm Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống - Ta hãy xin cho được lòng đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần. Thứ Bốn thì ngăm Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ. Thứ Năm thì ngắm Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời - Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước thiên đàng. 17* CẦU CHO CÁC LINH HỒN Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, giữ gìn chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. hoặc Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ / cho linh hồn ... được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. 18* KINH MƯỜI ĐIỀU RĂN Đạo Đức Chúa Trời có Mười điều răn Thứ nhất Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự. Thứ hai Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba Giữ ngày Chúa Nhật. Thứ bốn Thảo kính cha mẹ. Thứ năm Chớ giết người. Thứ sáu Chớ làm sự dâm dục. Thứ bẩy Chớ lấy của người. Thứ tám Chớ làm chứng dối. Thứ chín Chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười Chớ tham của người. Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen. 19* KINH SÁU ĐIỀU RĂN HỘI THÁNH Hội Thánh có sáu điều răn Thứ nhất Xem lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc. Thứ hai Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc. Thứ ba Xưng tội trong một năm ít là một lần. Thứ bốn Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh. Thứ năm Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc. Thứ sáu Kiêng thịt ngày Thứ Sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy. 20* KINH BẢY BÍ TÍCH Đạo Đức Chúa Trời có 7 phép Bí tích. Thứ nhất Là phép Rửa tội. Thứ hai Là phép Thêm Sức. Thứ ba Là phép Mình Thánh Chúa. Thứ bốn Là phép Giải tội. Thứ năm Là phép Xức dầu thánh. Thứ sáu Là phép Truyền chức thánh. Thứ bảy Là phép Hôn phối. Mục Lục Giáo Lý Dự Tòng Trở Về Trang Nhà CHƯƠNG III NHỮNG THÓI QUEN VÀ YÊU CẦU CẦN ĐẠT Ở KHỐI SƠ CẤP Sau 2 năm học Giáo lý ở khối Sơ cấp, các em học sinh phải đạt được các thói quen và yêu cầu sau đây 1. Về nếp sống đạo - Các kinh cần thuộc từ kinh số 1-18 trong sách kinh nhỏ. Có thói quen đọc kinh tối, sáng cá nhân hoặc với gia đình, liên gia . - Có thói quen nói chuyện với Chúa hằng ngày lúc vui lúc buồn. - Dự lễ tối thiểu Chúa nhật và thứ năm hằng tuần. - Có thói quen tới nhà thờ chào Chúa rồi mới đi làm việc khác. - Khi về nhà Biết chào Chúa nơi bàn thờ. - Tham gia hội đoàn giúp lễ, ca đoàn, đọc Sách Thánh. 2. Về nhân bản a. Giao tế - Gặp người lớn tuổi biết chào hỏi. - Về nhà biết chào ông, bà, cha mẹ, anh chị em - đi thưa về trình. - Vui vẻ đoàn kết và biết giúp đỡ bạn bè. - Có ý thức làm công việc bác ái phù hợp lứa tuổi nhịn quà cho kẻ khó, giúp đỡ người già, tàn tật…. - Có ý thức giúp đỡ gia đình quét nhà, lau bàn, phụ dọn bàn ăn gia đình. - Không nói tục, không nói chuyện riêng trong lớp học Giáo lý, nhà thờ. b. Trí dục - Biết truyền đạt câu ngắn đủ ý, đúng văn phạm. - Mạnh dạn phát biểu và tập cầu nguyện tự phát trong lớp Giáo lý. - Viết đúng chính tả và văn phạm bài ghi ở vở Giáo lý. - Chữ viết sạch sẽ, ngay ngắn tiến tới viết đẹp nét chữ nết người . c. Thể mỹ - Hằng ngày có thói quen tắm rửa, đánh răng sau bữa ăn và khi ngủ dậy. - Có thói quen tập bài thể dục nhi đồng. - Quần áo luôn ngay ngắn sạch sẽ. - Tránh xem sách báo, tranh ảnh không tốt. - Chân tay sạch sẽ, móng tay cắt ngắn. - Tập họp nhanh, thẳng hàng và im lặng khi ra vào lớp Giáo lý. LƯU Ý Các Giáo lý viên hãy phân phối và sắp xếp các yêu cầu này vào chương trình giảng dậy. 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Nàdika bộ lạc Na-đề-ca tại Ginjakàvasatha nhà làm bằng gạch. Lúc bấy giờ, Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã sống, đã từ trần và đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh như bộ lạc Kàsi Ca-thi, Kosala Câu-tát-la, Vajjì Bạt-kỳ, Malla Mạt-la, Ceti Chi-đề, Vansa Bạt-sa, Kuru Câu-lâu, Pancàla Ban-giá-la, Maccha Bà-sá-la Sùrasena Mậu-ba-tây-na - Vị này sanh ra tại chỗ này! Vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdika đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà, đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ tận diệt khổ đau. Hơn năm trăm vị Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được diệt trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác. 2. Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe "Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần và đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, Malla, Ceti, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này. Vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh Thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy, lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc. 3. Tôn giả Ananda được nghe "Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần, đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, mallà, Ceti, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này, vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn 50 vị tín đồ Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nãdikã đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được diệt trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nãdikã được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc". 4. Rồi tôn giả Ananda suy nghĩ "Nhưng ở tại Magadha Ma-kiệt-đà, có nhiều tín đồ đã tu hành lâu ngày và đã từ trần, mệnh chung, nhiều đến nỗi người ta tưởng hai xứ Anga Ương-già và Magadha đều trống không vì số tín đồ từ trần mệnh chung. Những vị này tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp và tin tưởng Tăng, và giới luật đầy đủ. Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và sự mệnh chung của họ. Lành thay nếu gợi được một câu trả lời về họ, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin, và từ đó được sanh lên thiện giới. Lại có vua Seniya Bimbisàra Tư-ni-du Tần-bà-sa xứ Magadha sống như Pháp, dùng Chánh pháp trị nước, có lòng thương tưởng các vị Bà-la-môn, Gia chủ, dân chúng thị thành và dân chúng thôn quê. Vua này được dân chúng xưng tán như sau "Vị vua sống như pháp, dùng chánh pháp trị nước, đã làm cho chúng ta sung sướng, vị này mệnh chung. Chúng ta đã sống thật hạnh phúc dưới thời vua sống như Pháp và dùng Chánh pháp trị nước này. Vị vua này cũng tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ". Và dân chúng cũng nói "Cho đến khi mệnh chung, vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha luôn luôn tán dương Thế Tôn". Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của vị vua này. Lành thay, nếu gợi được câu trả lời về vị vua này, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin và từ đó được sanh lên thiên giới. Lại nữa Thế Tôn chứng quả Bồ-đề tại Magadha. Thế Tôn đã chứng quả Bồ-đề tại Magadha. Thế Tôn đã chứng Bồ đề ở Magadha tại Magadha thì sao Ngài lại không nói đến về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha? Nếu Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha thời các vị này sẽ đau buồn và nếu các vị này đau buồn thời sao Thế Tôn có thể không trả lời được?". 5. Sau khi đã suy nghĩ một mình, yên lặng, vì các tín đồ ở Magadha, tôn giả Ananda sáng hôm sau thức dậy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn - Bạch Thế Tôn con có nghe Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần, đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, Malla, Ceit, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này, vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdikà đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất Lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc. 6. Bạch Thế Tôn, nhưng ở tại Magadha có nhiều tín đồ này tu hành lâu ngày và đã từ trần, mệnh chung, nhiều đến nỗi người ta tưởng hai xứ Anga và Magadha đều trống không vì số tín đồ từ trần mệnh chung. Những vị này tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ. Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của họ. Lành thay nếu gợi được một câu trả lời về họ, và như vậy nhiều người sẽ khơi lòng tin, và từ đó được sanh lên Thiên giới. Bạch Thế Tôn, lại có vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha, sống như Pháp, dùng Chánh pháp trị nước, có lòng thương tưởng các vị Bà-la-môn, Gia chủ, dân chúng thị thành và dân chúng thôn quê. Vua này được dân chúng xưng tán như sau "Vị vua sống như Pháp, và dùng Chánh pháp cai trị nước này. Vị Vua này cũng tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ". Và dân chúng cũng nói "Cho đến khi mệnh chung, vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha luôn luôn tán dương Thế Tôn". Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của vị vua này. Lành thay nếu gợi được câu trả lời về vị vua này, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin, và từ đó được sanh lên thiên giới. Bạch Thế Tôn, lại nữa Thế Tôn đã chứng quả Bồ-đề ở Magadha. Thế Tôn đã chứng quả Bồ đề ở Magadha, thời sao Ngài không nói về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha. Nếu Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha, thời các vị này sẽ đau buồn, và nếu các vị này đau buồn thời sao Thế Tôn có thể không thể trả lời được! Tôn giả Ananda, vì các tín đồ ở Magadha, sau khi đã trình lên trước Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ ra đi. 7. Sau khi tôn giả Ananda đi ra không bao lâu, Thế Tôn liền đắp y vào buổi sáng, tay cầm y bát, đi vào Nàdikà để khất thực. Khi khất thực ở Nàdikà xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực về và rửa chân, Ngài vào ngôi nhà bằng gạch, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, suy nghĩ, tư duy chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng như thế nào?" Thế Tôn thấy được chỗ thọ sanh và vận mạng của các Hiền nhân tín đồ ở xứ Magadha này. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, sau khi tịnh niệm, bước ra khỏi ngôi nhà bằng gạch, rồi ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, dưới bóng ngôi nhà. 8. Rồi Tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn ở, lúc đến xong, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngó thật là an tịnh; diện sắc của Thế Tôn như là sáng chói nhờ các căn thật sự thanh tịnh. Bạch Thế Tôn Thế Tôn hôm nay an trú có được hoan hỷ không? 9. - Này Ananda, sau khi Ngươi, vì các tín đồ ở Magadha đã nói trước mặt Ta như vậy và đứng dậy ra về, Ta đi khất thực ở Nàdikà xong, sau bữa ăn, khi đi khất thực về và rửa chân, Ta vào ngôi nhà bằng gạch, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, suy nghĩ tư duy, chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các vị Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng như thế nào?" Rồi Ta thấy được chỗ thọ sanh và vận mạng của các Hiền nhân tín đồ ở xứ Magadha này. Này Ananda, lúc bấy giờ một vị Dạ-xoa Yakkha ẩn mình lớn tiếng nói rằng "Bạch Thế Tôn, con tên là Janavasabha. Bạch Thiện Thệ, con là Janavasabha". Này Ananda, Ngươi từ trước đã từng được nghe ai tên là Janavasabha Xà-ni-sa chưa? - Bạch Thế Tôn, còn từ trước chưa từng được nghe ai tên Janavasabha. Bạch Thế Tôn, khi con nghe tên Janavasabha, con có cảm giác râu tóc bị dựng ngược, Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ "Vị Dạ-xoa này không phải là hạng tầm thường, vì đã mang tên Janavasabha". 10. - Này Ananda, khi những lời ấy được nói xong, vị Dạ-xoa ấy hiện ra trước mặt Ta, nhan sắc thật phi thường và lần thứ hai, vị ấy nói "- Bạch Thế Tôn, con là Bimbisàra! Bạch Thế Tôn, con là Bimbisàra! Bạch Thế Tôn, nay là lần thứ bảy con được sanh vào giòng họ vua Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương. Con chết đi trong địa vị làm vua ở nhơn gian, nay được sanh trên thiên giới, làm bậc phi nhân. Từ đây đến bảy lần Từ kia đến bảy lần Mười bốn lần tái sanh. Như vậy con biết được, ời quá khứ của con. Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai. "- Thật hy hữu thay, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha đã nói với ta 'Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai.' Do nguyên nhân gì, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha tự biết mình đã đạt được địa vị cao thượng, thù thắng như vậy?" 11- "Bạch Thế Tôn, không gì khác ngoài giáo lý của Ngài! Từ khi con nhất hướng quy y và tín ngưỡng Thế Tôn, từ khi ấy con không còn đọa lạc vào ác thú, vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai. Bạch Thế Tôn, con được vua Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương nhờ con đi đến vua Virùlhaka Tăng Trưởng Thiên vương có chút công việc, giữa đường con thấy Thế Tôn vào ngôi nhà bằng gạch suy nghĩ tư duy, chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng thế nào? "Bạch Thế Tôn! Không thể kỳ diệu sao được khi con đối mặt tự thân nghe từ miệng vua Vessavana nói với hội chúng của mình, các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mệnh như thế nào? Bạch Thế Tôn! Ta sẽ đề cập vấn đề với Thế Tôn!" Bạch Thế Tôn, đó là hai nguyên nhân khiến con đến yết kiến Thế Tôn! 12. "Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát Uposatha trong tháng nhập an cư mùa mưa, toàn thể chư Thiên ở cõi Tàvatimsà Tam thập tam thiên ngồi họp hội tại Thiện Pháp đường Sudhamma. Xung quanh có ại Thiên chúng ngồi khắp mọi phía, tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi. ại vương Dhatarattha Trì Quốc Thiên vương vua ở phương ông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước mặt Thiên chúng. ại vương Virùlhaka Tăng Trưởng Thiên vương, vua ở phương Nam ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng. ại vương Virùpakkha Quảng Mục Thiên vương vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng ông, trước mặt Thiên chúng. ại vương Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương, vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mặt Thiên chúng. Bạch Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường xung quanh có ại thiên chúng ngồi khắp mọi phía, và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy là thứ tự chỗ ngồi của những vị này, rồi đến chỗ ngồi của chúng con. Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống Phạm hạnh theo Thế Tôn và nay nếu sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư Thiên khác về thân sắc và danh tiếng. Bạch Thế Tôn chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, tín thọ, hỷ lạc sanh "Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt". 13. "Bạch Thế Tôn, lúc bấy giờ Thiện chủ ế thích Sakka Inda thấy chư thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền tùy hỷ nói lên bài kệ như sau Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. Thấy Thiên chúng tân sanh, Quang sắc thật thù thắng, Các vị sống Phạm hạnh, Nay sanh tại cõi này. Họ thắng về quang sắc, Thọ mạng và danh xưng, ệ tử bậc ại Tuệ, Thù thắng sanh cõi này. Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. "Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, tín thọ, hỷ lạc sanh hơn nữa và nói "Thiện giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt". 14. "Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này suy tư thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy, bốn vị đại vương được thuyết giảng. Theo mục đích ấy, bốn vị đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình. Các đại vương chấp nhận Lời giảng dạy khuyến giáo. Thanh thoát và an tịnh, ứng bên chỗ mình ngồi. 15. "Bạch Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh sáng vi diệu khởi lên, một hào quang hiện ra, thắng xa oai lực của chư Thiên. Bạch Thế Tôn rồi Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra như vậy báo hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra". Theo hiện tượng được thấy, Phạm thiên sẽ xuất hiện. Hiện tượng đấng Phạm thiên, Là hào quang vi diệu. 16. "Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi xuống trên ghế của mình và nói "Chúng tôi sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy". "Cũng vậy, bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy". Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng ta sẽ đi gặp vị ấy". 17. "Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumãra Thường ồng hình Phạm thiên xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngài xuất hiện với một hóa tướng thô xấu. Bạch Thế Tôn, vì khi Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, sắc tướng không đủ thù thắng để chư Thiên ở Tam thập tam thiên khâm phục. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tham thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra hiện ra trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, không một vị Thiên nào trong chúng này đảnh lễ, đứng dậy hoặc mời vị Phạm thiên ngồi. Tất cả đều yên lặng, chấp tay, không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ "Này, nếu Phạm thiên Sanamkumàra muốn gì với vị Thiên nào, thời hãy ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên ấy". Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm lễ quán đảnh và lên vương vị, vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, vô cùng hoan hỷ. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra Thường ồng hình Phạm thiên ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. 18. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện với hình tượng thô xấu, hiện thành một đồng tử tên là Pancasikha Ngũ Kế trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Bay bổng lên trời, vị này ngồi kiết-già giữa hư không. Bạch Thế Tôn, như một vị lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng hay trên một mặt đất thăng bằng, cũng vậy bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra bay bổng trên trời, ngồi kiết-già trên hư không, thấy được sự an tịnh của chư Thiên ở Tam thập tam thiên liền nói lên sự hoan hỷ của mình bằng bài kệ sau đây Chư Tam thập tam thiên Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. Thấy Thiên chúng tân sanh Quang sắc thật thù thắng, Các vị sống Phạm hạnh Hay sanh tại cõi này. Chúng thắng về quang sắc Thọ mạng và danh xưng, ệ tử bậc ại Tuệ, Thù thắng sanh cõi này. Chư Tam thập tam thiên Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai Cùng Chánh pháp vi diệu. 19. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung lời nói của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, tiếng nói của Phạm thiên Sanamkumàra có tám đặc điểm sau đây lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra giải thích cho hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi đại chúng. Bạch Thế Tôn, một tiếng nói có tám đặc điểm như vậy gọi là Phạm âm. 20. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra, tự hiện hóa ba mươi hóa thân, mỗi thân ngồi kiết già trên mỗi chỗ ngồi của chư Thiên ở Tam thập tam thiên và nói với chư Thiên, này như sau "- Này Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Thế Tôn phục vụ cho hạnh phúc chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chư Thiện hữu, những ai quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và giữ trọn giới luật, những vị này khi thân hoại mệnh chung, một số được sanh lên Thiên chúng Parinimiitta - Vasavati Tha Hóa Tự tại thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Nimmànaratì Hóa Lạc thiên; một số được sanh lên Thiên chúng Tusità âu-suất thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Yàmà Dạ-ma-thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Tà-vatimsà Tam thập tam thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Catumàràjikà Tứ Thiên vương thiên, những ai phải điền vào cho đủ số hạ phẩm nhất được sanh vào chúng Gandhabba Càn-thát-bà. 21. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, giọng nói của Phạm thiên Sanamkumàra về vấn đề này được nói một cách khiến mỗi vị Thiên nghĩ rằng "Vị ngồi trên chỗ ngồi của ta, chỉ vị ấy nói mà thôi". Chỉ một Phạm thiên nói, Mọi hóa thân đều nói, Chỉ một vị im lặng, Tất cả đều im lặng. Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích nghĩ rằng Chỉ vị ngồi chỗ ta, Chỉ vị ấy riêng nói. 22. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra thâu nhiếp tất cả thân thành một thân, sau khi thâu nhiếp, liền ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka và nói với Thiên chúng ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Bốn pháp thần túc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác, khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Thế nào là bốn? Ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu dục, thiền định tinh cần hành... tinh tấn thiền định... tâm thiền định... tu tập thần túc, câu hữu với tư duy thiền định, tinh cần hành. Bốn pháp thần túc này đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ đã thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và phát triển thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai sẽ thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều sẽ tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị có thấy ở nơi tôi thần lực như vậy không? "- Có như vậy, Phạm thiên! "- Chư Thiện hữu, tôi nhờ tu tập và phát triển bốn thần túc này mà nay thành tựu đại thần lực như vậy, đại uy đức như vậy. 23. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là ba? "Chư Thiện hữu, ở đây có người thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp. Sau một thời gian, vị nào được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Và khi nghe được Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp vị này sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp. Nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, như từ thoải mái, hỷ duyệt sanh, cũng vậy, Chư thiện hữu nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ nhất hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 24. "Chư Thiện hữu, lại nữa ở đây có người thân hành thô lậu, chưa được an tịnh, khẩu hành thô lậu... ý hành thô lậu chưa được an tịnh, sau một thời gian vị này được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Sau khi được nghe Thánh pháp, thân hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành thô lậu của vị này... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, nhờ từ thoải mái, hỷ duyệt sanh, cũng vậy chư Thiện hữu, nhờ thân hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ hai hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 25. "Chư Thiện hữu, lại nữa ở đây có người không như thật biết "ây là thiện", không như thật biết "ây là bất thiện", không như thật biết "ây là có tội", "ây là không tội", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đều". Sau một thời gian, vị này được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Sau khi được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp, vị này như thật biết "ây là thiện", như thật biết "ây là bất thiện", như thật biết "ây là có tội", "đây là không tội", "đây cần phải thuận theo", "đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đều". Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, vô minh của vị này được trừ diệt, minh được sanh khởi. Vị này nhờ vô minh được trừ diệt và minh sanh khởi, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc, đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. "Chư Thiện hữu, đó là ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 26. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Bốn Niệm xứ hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là bốn? Chư Thiện hữu, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán thân trên nội thân vị này được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi đối với các thân khác ngoài tự thân. Vị Tỷ-kheo sống quán các cảm thọ từ nội thân... quán tâm... quán pháp đối với các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán pháp đối với các pháp, tâm được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi, đối với các pháp khác. "Chư Thiện hữu, bốn Niệm xứ này hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ". 27. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào về bảy pháp ịnh tư lương Samàdhi-parikkhàrà để tu hành chánh định, để kiện toàn thiền định, đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ? Thế nào là bảy? Như chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Chư Thiện hữu, nhứt cảnh tánh của tâm do bảy chi này sửa soạn, được gọi là thánh chánh định cùng với các y chỉ và dùng với các tư lương. Chư Thiện hữu, chánh tư duy vừa đủ để chánh tri kiến sanh khởi, chánh ngữ vừa đủ để chánh tư duy sanh khởi, chánh nghiệp vừa đủ để chánh ngữ sanh khởi, chánh mạng vừa đủ để chánh nghiệp sanh khởi, chánh tinh tấn vừa đủ để chánh mạng sanh khởi, chánh niệm vừa đủ để chánh tinh tấn sanh khởi, chánh định vừa đủ để chánh niệm sanh khởi, chánh trí vừa đủ để chánh định sanh khởi, chánh giải thoát vừa đủ để chánh trí sanh khởi. "Chư Thiện hữu, nếu có người nói lời chánh ngữ sau đây "Chánh pháp đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở". Nói như vậy là chánh ngữ. Chư Thiện hữu, vì chánh pháp thật sự đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở. "Chư Thiện hữu, những ai tin tưởng Phật không có thối chuyển, tin tưởng Pháp không có thối chuyển, tin tưởng Tăng không có thối chuyển, đầy đủ giới hạnh khiến bậc Thánh hoan hỷ, tất cả những vị được hóa sanh được Chánh pháp hướng dẫn, hơn hai trăm bốn mươi vạn vị cư sĩ ở Magadha đã từ trần mệnh chung, những vị này đều diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn đọa vào ác thú, chắc chắn đạt đến chánh giác. Lại có những vị Nhất lai Với hạng chúng sanh này Ước lượng phần công đức. Không thể ước lượng được Sợ phạm tội vọng ngữ. 28. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, được biết nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra, đại vương Vessavana khởi lên suy tư sau đây "Chư Thiện hữu, thật là kỳ diệu! Chư Thiện hữu, thật là hy hữu, được có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, được một con đường đặc biệt như vậy". "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra tự tâm mình biết được tâm trí của đại vương Vessavana như vậy, liền thưa với đại vương "- ại vương Vessavana nghĩ như thế nào? Trong thời quá khứ đã có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, đã được trình bày một con đường đặc biệt như vậy... Trong thời gian tương lai, sẽ có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, sẽ được trình bày một con đường đặc biệt như vậy". 29. ó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên. ại vương Vessavana sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, liền nói với chúng của mình. Dạ-xoa Janavasabha sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của đại vương Vessavana nói với hội chúng, liền bạch lại với Thế Tôn. Thế Tôn sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Dạ-xoa Janavasabha, và sau khi tự mình chứng tri liền nói lại cho tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Thế Tôn liền nói lại cho chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ. Phạm hạnh này được hưng thịnh, được quảng bá, được truyền rộng cho đại chúng càng ngày càng đông, vì được khéo léo trình bày cho loài thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử. Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Long Discourses of the Buddha", Maurice Walshe dịch, 1987.

18 kinh cần thuộc